kimcuong, 2012
Vấn đề thập can phối hợp, hóa hay không hóa, ít ra cũng có 2 luồng tư tưởng căn bản. Một là khi hóa cách thành công, các thập thần không thay đổi. Hai là hóa cách thành công thì theo các cặp hóa hợp mà thay đổi thập thần. Đến nay chưa thấy ai luận cách thứ nhì ổn thỏa. Nhưng cả hai đều theo một qui tắc Thập can hóa:
Giáp Kỉ hợp hóa Thổ,
Ất Canh hợp hóa Kim,
Bính Tân hợp hóa Thủy,
Mậu Quí hợp hóa Hỏa,
Đinh Nhâm hợp hóa Mộc.
Lại có suy luận Hợp không Hóa, đó là từ qui tắc mà ra, nhưng không đạt điều kiện nên chỉ Hợp mà không Hóa ra ngũ hành khác. Khi Hợp chẳng Hóa, nói về tính tình của đương số, sẽ có phần đối kháng mạnh hơn, tạo nên nhiều sự bất thuận lợi cho nhật chủ.
Trong Mệnh Lý Thám Nguyên có viết: "Phối hợp tức là đã có tình tình hướng bối." Hướng bối tức là "quay lưng", có thể hiểu là phần mâu thuẫn tạo nên tính cách nổi bật rất mạnh.
Như mệnh của một nữ nhân, bát tự:
Năm: (c.ấn) Nhâm Tuất
Tháng: (c.quan) Canh Tuất
Nhật chủ: ẤT MÙI
Giờ: Bính Tí
Đại vận Mậu Thân, lấy chồng, sinh con, li dị năm Canh Dần 2010. Theo giờ sinh thì đến tháng 12 hàng năm mới vào hạn mới, có nghĩa là năm Dần li dị, nhưng thật tế vẫn còn trong hạn Kỉ Sửu, vì tháng 12.2002 mới bắt đầu vào đại vận.
Nhật chủ Ất hợp với Quan tinh của mình là Canh, nhưng không hóa được Kim vì lệnh tháng Tuất tàng Đinh hỏa, lại có Bính Hỏa thấu trụ giờ cản trở. Chỉ hợp không hóa, có khi nhờ địa chi hợp khứ nhau thì cũng được yên. Thế nhưng địa chi hình thành Tuất Mùi hình, Kỉ bản khí của Sửu vốn là cừu thần của Ất, khi tam hình Sửu Tuất Mùi xuất hiện thì có xung đột xảy ra đến mức phải đạt được kết thúc. Quan tinh hợp với nữ mệnh rất thường là hôn nhân hoặc gia đình bị ảnh hưởng khi có đột biến. Nhưng chẳng phải trách tự Quan tinh đến làm khó mình, vấn đề là chính tính tình của mình không chịu đựng được sự xung đột.
Thân nhược dụng Nhâm thủy, Thổ là kị thần, Kỉ Sửu thiên can địa chi đều Thổ vượng, Mộc nhược, chẳng phải cách giải quyết là hướng bối đấy sao?
Nhân thể tứ trụ nữ mệnh trên, lại trích 1 câu trong Thần Phong Thông Khảo, chương Tòng Hóa Cách:
"Ất nhật can gặp giờ Canh Thìn, địa chi toàn Tị Dậu Sửu, luận đương số được phú quí. Hoặc địa chi toàn Thìn Tuất Sửu Mùi, Ất Canh hợp hóa Kim thành cách, vận tây phương là vận cực tốt. Nếu gặp thời vận là Bính Đinh thì phá hoại Kim, tất có thể tử vong."
Cho thấy nếu địa chi gặp tòan Thổ, tức Thổ Ấn sinh Kim, gọi là hóa Kim thành cách. Đây là biệt lệ của Thổ, nhất là khi tòan địa chi Thổ cùng gặp.
Như ngược lại, không hóa thành cách, tự nguyên cục đã có cản trở (Bính Đinh) thì điều trên vẫn có tác dụng áp lực đối với nhật chủ. Vận Bính Đinh hoặc Tị Ngọ rất có thể gây hung họa lớn cho Ất nhật chủ.
Vấn đề thập can phối hợp, hóa hay không hóa, ít ra cũng có 2 luồng tư tưởng căn bản. Một là khi hóa cách thành công, các thập thần không thay đổi. Hai là hóa cách thành công thì theo các cặp hóa hợp mà thay đổi thập thần. Đến nay chưa thấy ai luận cách thứ nhì ổn thỏa. Nhưng cả hai đều theo một qui tắc Thập can hóa:
Giáp Kỉ hợp hóa Thổ,
Ất Canh hợp hóa Kim,
Bính Tân hợp hóa Thủy,
Mậu Quí hợp hóa Hỏa,
Đinh Nhâm hợp hóa Mộc.
Lại có suy luận Hợp không Hóa, đó là từ qui tắc mà ra, nhưng không đạt điều kiện nên chỉ Hợp mà không Hóa ra ngũ hành khác. Khi Hợp chẳng Hóa, nói về tính tình của đương số, sẽ có phần đối kháng mạnh hơn, tạo nên nhiều sự bất thuận lợi cho nhật chủ.
Trong Mệnh Lý Thám Nguyên có viết: "Phối hợp tức là đã có tình tình hướng bối." Hướng bối tức là "quay lưng", có thể hiểu là phần mâu thuẫn tạo nên tính cách nổi bật rất mạnh.
Như mệnh của một nữ nhân, bát tự:
Năm: (c.ấn) Nhâm Tuất
Tháng: (c.quan) Canh Tuất
Nhật chủ: ẤT MÙI
Giờ: Bính Tí
Đại vận Mậu Thân, lấy chồng, sinh con, li dị năm Canh Dần 2010. Theo giờ sinh thì đến tháng 12 hàng năm mới vào hạn mới, có nghĩa là năm Dần li dị, nhưng thật tế vẫn còn trong hạn Kỉ Sửu, vì tháng 12.2002 mới bắt đầu vào đại vận.
Nhật chủ Ất hợp với Quan tinh của mình là Canh, nhưng không hóa được Kim vì lệnh tháng Tuất tàng Đinh hỏa, lại có Bính Hỏa thấu trụ giờ cản trở. Chỉ hợp không hóa, có khi nhờ địa chi hợp khứ nhau thì cũng được yên. Thế nhưng địa chi hình thành Tuất Mùi hình, Kỉ bản khí của Sửu vốn là cừu thần của Ất, khi tam hình Sửu Tuất Mùi xuất hiện thì có xung đột xảy ra đến mức phải đạt được kết thúc. Quan tinh hợp với nữ mệnh rất thường là hôn nhân hoặc gia đình bị ảnh hưởng khi có đột biến. Nhưng chẳng phải trách tự Quan tinh đến làm khó mình, vấn đề là chính tính tình của mình không chịu đựng được sự xung đột.
Thân nhược dụng Nhâm thủy, Thổ là kị thần, Kỉ Sửu thiên can địa chi đều Thổ vượng, Mộc nhược, chẳng phải cách giải quyết là hướng bối đấy sao?
Nhân thể tứ trụ nữ mệnh trên, lại trích 1 câu trong Thần Phong Thông Khảo, chương Tòng Hóa Cách:
"Ất nhật can gặp giờ Canh Thìn, địa chi toàn Tị Dậu Sửu, luận đương số được phú quí. Hoặc địa chi toàn Thìn Tuất Sửu Mùi, Ất Canh hợp hóa Kim thành cách, vận tây phương là vận cực tốt. Nếu gặp thời vận là Bính Đinh thì phá hoại Kim, tất có thể tử vong."
Cho thấy nếu địa chi gặp tòan Thổ, tức Thổ Ấn sinh Kim, gọi là hóa Kim thành cách. Đây là biệt lệ của Thổ, nhất là khi tòan địa chi Thổ cùng gặp.
Như ngược lại, không hóa thành cách, tự nguyên cục đã có cản trở (Bính Đinh) thì điều trên vẫn có tác dụng áp lực đối với nhật chủ. Vận Bính Đinh hoặc Tị Ngọ rất có thể gây hung họa lớn cho Ất nhật chủ.