Luận Kị thần
Tác giả: Hoàng Đại Lục

Nguồn: http://blog.sina.com.cn/s/blog_4d4f37290100095k.html

Cái gọi là Kị", nghĩa xuất phát của từ làm hại và cầm chế, còn Kị thần chính là chữ mà mệnh cục sợ và kiêng kị.

Tác dụng của Kị thần và Tướng thần vừa khéo trái ngược nhau, Tướng thần là chữ thành cách, còn Kị thần là chữ phá cách. Kị thần phá cách chủ yếu biểu hiện ở 2 phương diện dưới đây:

1. Tổn Dụng thần mà phá cách

Ví dụ, Giáp mộc sinh vào tháng Dậu, làm Chính quan cách. Mệnh cục nếu có Đinh hỏa Thương quan hoặc Ngọ hỏa Thương quan, tức là Thương quan gặp Quan, phá cách. Lúc này Đinh Ngọ Thương quan chính là Kị thần. Đương nhiên, nếu như mệnh cục có Nhâm Quý Hợi Tý thủy khắc chế Đinh Ngọ Thương quan, thì không gọi Đinh Ngọ Thương quan là Kị thần, mà gọi là Kị thần hữu chế bất làm kị.

Lại như, Giáp mộc sinh vào tháng Tý, Chánh Ấn cách. Mệnh cục nếu có Mậu Kỷ Mùi Tuất thổ khắc chế Tý thủy, làm phá cách. Lúc này Mậu Kỷ Mùi Tuất Tài tinh chính là Kị thần. Nhưng nếu mệnh cục lại có Giáp Ất Dần Mão mộc có thể chế trụ Mậu Kỷ Mùi Tuất thổ, hoặc có Canh Tân Thân Dậu kim có thể hóa tiết thổ mà chuyển sinh thủy, chính là Kị thần hữu chế, lúc này Tài tinh không hề bị coi là Kị thần.

Tiếp theo, Giáp mộc sinh vào tháng Mậu Thìn, là tạp khí Thiên Tài cách. Mệnh cục nếu có Giáp Ất Tỉ Kiếp khắc thử Tài tinh, tức làm phá cách. Nhưng chỉ cần có Canh Tân Quan sát có năng lực chế Tỉ Kiếp, thì Tài cách bất lấy phá luận, lúc này Quan sát bị coi là Tướng thần. Thế nhưng, nếu như mệnh cục không có Tỉ Kiếp khắc Tài phá cách, lại có Canh Tân Quan sát tiết Tài, cũng là phá cách, lúc này Quan sát tựu thành Kị thần. Chỉ có mệnh cục có Bính Đinh Thực Thương chế Quan sát mới có thể bảo trụ Tài cách không phá.

2. Tổn Tướng thần mà phá cách

Ví dụ, Ất mộc sinh vào tháng Dậu, là Thất Sát cách. Mệnh cục có Bính Đinh Thực Thương thì thành cách. Lúc này Bính Đinh Thực Thương chính là Tướng thần, nếu thấy có Nhâm Quý Kiêu Ấn lai đoạt Thực Thương thì phá cách, Nhâm Quý Kiêu Ấn chính là Kị thần. Đương nhiên, Thực Thương chế Sát cách tuy không có Kiêu Ấn đoạt Thực Thương phá cách, nhưng có Tài tinh tiết Thực Thương mà chuyển sinh Thất Sát, cũng là phá cách, lúc này Tài tinh chính là Kị thần.

Lại như, Giáp mộc sinh vào tháng Ngọ, làm Thương quan cách, mệnh cục có Hợi thủy chế thương, thì thành cách Thương quan bội Ấn. Ấn tinh chính là Tướng thần. Lúc này có Mậu Kỷ thổ khắc Ấn tinh là phá cách, vô Mậu Kỷ thổ khắc Ấn tinh nhưng hữu Dần Mão mộc hợp Hợi thủy cũng là phá cách, mặc dù Dần Mão mộc cũng là giúp thân, nhưng hợp đi Ấn tinh, sẽ tổn hao nhiều quý khí và văn khí.

Tiếp như, Canh kim sinh vào tháng Thân Dậu, kim đa kim cường, Nhật chủ chuyên vượng, vừa thấy có Bính Đinh hỏa nghịch kim vượng thế tức là phá cách. Lúc này Bính Đinh hỏa là Kị thần, nếu có Mậu Kỷ thổ hóa tiết nó, nó sẽ không tái làm Kị thần nữa, hoặc có Nhâm Quý thủy khắc nó cũng tác dụng tương tự.

Trường hợp khác, Canh kim sinh vào tháng Thìn, mệnh cục Mậu Kỷ Sửu Mùi thổ rất nhiều, làm Dụng thần Ấn tinh quá cường vượng, lúc này coi như lấy Canh Tân Thân Dậu kim làm Tướng thần, đến hóa tiết Dụng thần quá vượng. Làm cho thổ kim cùng vượng trở thành thổ kim dục tú cách. Lúc này nếu kiến mộc đến khắc thổ, chính là phá cách, mộc ấy tức là Kị thần. Nếu như mệnh cục thổ vừa nhiều vừa vượng, nhưng chỉ cần có mộc có thể làm chỗ dựa, thì thành cách bỏ Ấn tựu Tài, mộc tựu lại biến thành Tướng thần, kim khắc mộc ngược lại thành Kị thần.

Từ phân tích bên trên, Kị thần cùng Tướng thần giống nhau, theo biến hóa mệnh cục mà biến hóa, đặc trưng nổi bật và tai hại nhất của Kị thần chính là phá hoại cách cục. Kị thần một khi phá cách cục, sẽ mang đến cho mệnh chủ tai họa. Nhẹ thì mưu sự gặp trở ngại, nặng thì không chết cũng tàn tật. Bởi vậy, xem chính xác Kị thần, đồng thời nắm chắc mức độ sức mạnh của nó, là mấu chốt suy đoán mệnh chủ phú quý bần tiện và cát hung họa phúc. Phàm mệnh cục có Kị thần mà vô chế, mệnh chủ cả đời sẽ không sống lạc quan, nghèo khó và tai nạn theo sát anh ta như âm hồn bất tán. Có Kị thần không sợ, chỉ cần có chế, mệnh chủ có thể gặp hung hóa cát, gặp nạn tai qua, sự nghiệp hữu thành.

Dưới đây đưa ra một số mệnh tạo có liên quan đến Kị thần, nhằm giúp hậu học tham khảo:

Ví dụ 1:
Kiêu Thương nhật Ấn
Bính Tân Mậu Đinh
Ngọ Mão Tý Tị

Nam mệnh. Mậu thổ sinh vào tháng 2, Chính quan làm dụng. Tân kim cái đầu phá cách, gặp Bính hỏa khắc hợp Tân kim, phá cách phục thành. Bính hỏa này tức là Tướng thần. Tướng thần đắc lực, căn bản hi vọng phú quý tương xứng, ao ước tiền đồ. Tuy vậy đại vận không tốt, đầu tiên là Nhâm Quý Kị thần khắc chế Bính hỏa Ấn tinh, gia cảnh bần khốn, học hành khó thành công, chỉ đến trường quá hai năm thì thôi học. Vận Giáp Ngọ, chỉ thời gian Giáp vận có vài năm khấm khá, Ngọ vận gặp mệnh cục Tý thủy hồi xung. Lưu niên lại vượt qua những năm kim thủy Nhâm Thân Quý Dậu, Kị thần hung hăng ngang ngược, mệnh chủ bách mưu mà chẳng toại ý, không có một ngày tốt lành.

Ví dụ 2:
Thực Kiếp nhật Tài
Canh Kỷ Mậu Quý
Tý Mão Tuất Sửu

Nam mệnh. Mão mộc độc Quan đương lệnh, cần có Tài Ấn tương phụ. Mệnh cục hữu Tài vô Ấn, cách cục liền thấp xuống. Hơn nữa, trong Tuất có Tân kim Thương quan, Mão Tuất hợp lại, Tân kim gần cạnh có thể khắc Mão mộc Quan tinh, phá cách. Vốn Đinh hỏa trong Tuất có thể chế Tân kim, nhưng bởi Sửu Tuất tương hình, Quý trong Sửu tổn thương Đinh hỏa, cho nên Đinh hỏa không thể chế Tân kim. Như thế, Thương quan Kị thần ở trạng thái vô chế, vì thế mệnh chủ cả đời nghèo khốn. Từ nhỏ vô tâm đọc sách, cố tình phá hư việc học, ăn cắp ăn trộm, làm điều sai quấy. 16 tuổi tựu bởi giở trò lưu manh mà phải tọa lao mấy tháng. 24 tuổi lại bởi tội trộm cắp lưu manh bị tòa phán quyết đi tù 10 năm. 36 tuổi, xuất ngục vừa mới 2 năm, tái phạm tội cướp bóc lại bị phán quyết 7 năm tù. Năm tháng thanh xuân, cả thảy đều đưa vào nhà ngục.

Ví dụ 3:
Kiêu Kiếp nhật thương
Giáp Đinh Bính Kỷ
Thân Mão Tý Sửu

Nam mệnh. Ấn cách xem Quan, Tý Sửu hợp lại, Quan tinh bị thương. Thân kim khắc Mão, Ấn tinh cũng bị thương, cách cục tận phá. Hơn nữa Sửu thổ và Thân kim đều không chế, Kị thần vô chế, mệnh chủ tình cảnh tương lai không ổn. Đại vận Canh Ngọ, căn bản Ngọ hỏa có thể chế Tài cứu Ấn, tiếc rằng Thân Tý liên thủ hồi xung Ngọ hỏa, Ngọ hỏa có lòng mà vô lực. Tái gặp lưu niên Tân Dậu, trực xung Mão mộc Ấn tinh, Dụng thần bị thương nặng. Là năm, đầu tiên là cha mẹ mệnh chủ bị tai nạn xe cộ, bố mất mẹ thì tàn tật, tiếp theo là bản thân mắc bệnh ung thư gan, không có tiền chữa bệnh, tự sát thân vong. Để lại một mình mẫu thân anh ta tàn phế, sống không bằng chết, đây đều là kết cục thảm hại khi Kị thần vô chế.

Ví dụ 4:
Tài Sát nhật Tài
Mậu Canh Giáp Mậu
Tuất Thân Tuất Thìn

Nam mệnh. Gặp Sát xem Ấn, Ngũ Ngôn Độc Bộ nói rằng: "Giáp mộc sinh tại Thân, Sát Ấn ám tương sinh", vậy chỉ có Nhâm thủy trong Thân khả dĩ sinh Giáp mộc. Mệnh này Thân Thìn lại củng thủy, cơ bản thích hợp, nhưng bởi Thìn Tuất nhất xung, Thân Thìn do vậy khó có thể củng thủy, Ấn tinh bị phá hoại, mệnh phá cách. Tức là đại vận gặp Nhâm Quý Hợi Tý thủy cũng sẽ bị Mậu Tuất Thìn thổ trong mệnh cục hồi khắc, Ấn tinh cũng không có thể hóa Sát sinh Thân, Tài tinh Kị thần đương đạo, mệnh chủ vô phúc có thể nói rằng, dự kiến trước... Thực tế đúng như vậy, mệnh chủ không có đọc một ngày thư sách, tuổi thơ mất cha, lớn lên trở thành phu khuân vác, quanh năm lao động khổ cực, chỉ đủ cơm áo. Quá tuổi tráng niên cũng không có tiền lấy vợ.

Ví dụ 5:
Tài Tài nhật Ấn
Tân Tân Đinh Giáp
Hợi Mão Dậu Thìn

Nữ mệnh. Nguyệt thấu Chính Ấn, sợ nhất Tài phá. Mệnh cục Mão Dậu xung, Tân kim Tài tinh cái đầu nhất khắc, Ấn tinh đại thương, cách cục tận phá. Mệnh cục đại vận không thấy hai chữ Bính Đinh, Tài tinh Kị thần vô chế, không cần tế suy, kết quả tất nhiên không ổn. Mộc chủ về thần kinh và đầu, thụ khắc thì bệnh hiển tại đây. Mệnh chủ mười mấy tuổi đau ốm, tinh thần thất thường, không cần nói đến việc đọc sách, tương lai sau này cuộc sống cũng không có thể tự chủ trên đôi chân mình. Yểu điệu thục nữ, rút cuộc thành phế nhân!

Ví dụ 6:
Tài Tỉ nhật Kiếp
Đinh Quý Quý Nhâm
Mùi Mão Dậu Tý

Nam mệnh. Gặp Thực xem Tài, thiên can Đinh hỏa Tài tinh bị Quý thủy nhất khắc, địa chi Mão mộc Thực thần bị Dậu kim nhất xung, cách cục tận phá. Đồng thời đại vận một mạch kim thủy, Kị thần vô chế, nếu muốn phú quý thật chẳng khác "si nhân thuyết mộng", mộc hỏa làm hỷ dụng mà bị thương, chủ việc đau ốm thần kinh hoặc gân cốt trên người. Sự thật, mệnh chủ từ nhỏ bẩm sinh mắc bệnh động kinh, cộng thêm trí tuệ thiểu năng, 20 tuổi té bị thương, sau đó đến cuối đời vẫn bại liệt nằm trên giường. Có mệnh như thế, quả rất đáng tiếc!

(Hết)