【 Trích Thiên Tủy 】 Phá giải đối với thiên can đã đạt tới đỉnh cao, như luận thuật các loại:
"Muốn cùng nhân gian mở câm điếc,
Cái cơ thuận nghịch phải lý giải.
Ngũ Dương Bính dương là đứng đầu,
Ngũ Âm Quý âm là chí tôn;
Ngũ Dương tòng Khí bất tòng Thế,
Ngũ Âm tòng Thế vô tình nghĩa.
Lý thừa Khí hành khởi hữu thường,
Tiến hề thoái hề nghi ức dương;
Ngũ Khí thiên toàn định cát hung,
Trước xem Đế tải cùng Thần công".
Đều là mệnh lý tinh túy trình bày giải thích về khí Thiên can.
Nhưng mà đối với học giả thông thường mà nói, chân chính có thể thức tỉnh phá giải khí thiên can âm dương thực tế không có mấy người, muốn nắm thiên can chính xác tác dụng ở suy toán bát tự lại càng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì bát tự là học cái huyền diệu, rộng lớn mênh mông, trời đất bao la, không phải mọi người đều có thể học rộng rãi được. Từ xưa đều là truyền sách mà không có truyền bí quyết, truyền quyết mà không có điểm then chốt. Đặc biệt là giới mệnh lý hiện nay, vàng thau lẫn lộn, bỏ gốc lấy ngọn, khiến cho người học sau đi vào cỏi tối tăm, tìm không ra phương hướng chính xác. Càng học càng cảm thấy rất là huyền ảo, phí tiền phí thần phí giờ, đến bạc đầu cũng không nhập đạo. Tục viết: "Chân truyền một câu nói, là truyền vạn quyển sách. Quyết nghìn vàng Giang hồ, điểm phá không bao nhiều tiền". Chân chính có đủ dùng ở bí quyết kỹ pháp thực dụng đơn giản, minh sư thông thường sẽ không dễ dàng tiết lộ. Bởi vì tiết lộ ra chân quyết, chỉ sợ mất chén cơm của mình. Dùng thực tiễn để kiểm nghiệm thuật truyền thống của cổ hiền, hoàn thiện phương pháp Âm Dương Hình Khí Thiên thời cùng Địa lý. Cho nên trước đây đem chỗ viết ra nội dung bài văn này, hầu như mỗi ngày đều có ngòi bút chân kinh Thiên thời cùng Địa lợi viết ở bên trong.
Đối với khí thập can Giáp Ất, Bính Đinh, Mậu Kỷ, Canh Tân, Nhâm Quý giải độc chính xác, là điểm then chốt của kỹ pháp tác dụng thiên can bát tự. Đầu tiên thập thiên can ở trong Thái Cực Lưỡng Nghi phân ra âm dương, Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là khí dương, Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là khí âm. Ở trong Tứ Tượng Giáp Ất là Thiếu Dương, Bính Đinh là Thái Dương; Canh Tân là Thiếu Âm, Nhâm Quý là Thái Âm; Mậu Kỷ là khí trung tính. Ở trong ngũ hành, Giáp Ất là khí mộc, Bính Đinh là khí hỏa, Mậu Kỷ là khí thổ, Canh Tân là khí kim, Nhâm Quý là khí thủy, đây chính là cách luận thuật ngũ khí của 【 Trích Thiên Tủy 】. Trong đó căn cứ định tính âm dương, can dương và can âm ở trong Hà Đồ ngũ khí giao cấu có 1,6 Giáp Kỷ hợp; 2,7 Ất Canh hợp; 3,8 Bính Tân hợp; 4,9 Đinh Nhâm hợp; 5,10 Mậu Quý hợp. Quy luật pháp tắc là dương có năng lực cho ra, âm có công năng thu vào. Thì Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là 'Khí sinh Thế', Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là 'Thế thành Khí' . Can dương là khí cường, can âm là khí nhược. Đây chính là nguyên nhân chân chính tại sao lực của âm khắc âm cùng dương khắc dương, âm sinh âm cùng dương sinh dương lớn; lực âm sinh dương cùng dương sinh âm, âm khắc dương cùng dương khắc âm nhỏ hơn.
Thuật toán mệnh Âm Dương Hình Khí, Lý bắt đầu là ở Thái Cực. Từ Lý Thái Cực quy định, Lưỡng Nghi một âm một dương cùng chung cấu thành tồn tại sinh thành một Thái Cực, mới có thể đối ứng vạn vật vạn sự cát hung cân bằng. Từ chỗ này thì biết, sự vật chân chính tồn tại cát hung là do âm dương quyết định, âm dương quyết định tự nhiên (Thể), cùng quyết định xã hội (Dụng). Mà diễn sinh ngũ hành cùng thập thần chỉ qua là một loại trạng thái âm dương đối với sự tồn tại của sự vật, chỉ có thể thuyết minh mức độ cát hung và chuyển biến hình khí, mà căn bản không phải là trình bày rõ Thái Cực tồn tại cát hung.
"Muốn cùng nhân gian mở câm điếc,
Cái cơ thuận nghịch phải lý giải.
Ngũ Dương Bính dương là đứng đầu,
Ngũ Âm Quý âm là chí tôn;
Ngũ Dương tòng Khí bất tòng Thế,
Ngũ Âm tòng Thế vô tình nghĩa.
Lý thừa Khí hành khởi hữu thường,
Tiến hề thoái hề nghi ức dương;
Ngũ Khí thiên toàn định cát hung,
Trước xem Đế tải cùng Thần công".
Đều là mệnh lý tinh túy trình bày giải thích về khí Thiên can.
Nhưng mà đối với học giả thông thường mà nói, chân chính có thể thức tỉnh phá giải khí thiên can âm dương thực tế không có mấy người, muốn nắm thiên can chính xác tác dụng ở suy toán bát tự lại càng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì bát tự là học cái huyền diệu, rộng lớn mênh mông, trời đất bao la, không phải mọi người đều có thể học rộng rãi được. Từ xưa đều là truyền sách mà không có truyền bí quyết, truyền quyết mà không có điểm then chốt. Đặc biệt là giới mệnh lý hiện nay, vàng thau lẫn lộn, bỏ gốc lấy ngọn, khiến cho người học sau đi vào cỏi tối tăm, tìm không ra phương hướng chính xác. Càng học càng cảm thấy rất là huyền ảo, phí tiền phí thần phí giờ, đến bạc đầu cũng không nhập đạo. Tục viết: "Chân truyền một câu nói, là truyền vạn quyển sách. Quyết nghìn vàng Giang hồ, điểm phá không bao nhiều tiền". Chân chính có đủ dùng ở bí quyết kỹ pháp thực dụng đơn giản, minh sư thông thường sẽ không dễ dàng tiết lộ. Bởi vì tiết lộ ra chân quyết, chỉ sợ mất chén cơm của mình. Dùng thực tiễn để kiểm nghiệm thuật truyền thống của cổ hiền, hoàn thiện phương pháp Âm Dương Hình Khí Thiên thời cùng Địa lý. Cho nên trước đây đem chỗ viết ra nội dung bài văn này, hầu như mỗi ngày đều có ngòi bút chân kinh Thiên thời cùng Địa lợi viết ở bên trong.
Đối với khí thập can Giáp Ất, Bính Đinh, Mậu Kỷ, Canh Tân, Nhâm Quý giải độc chính xác, là điểm then chốt của kỹ pháp tác dụng thiên can bát tự. Đầu tiên thập thiên can ở trong Thái Cực Lưỡng Nghi phân ra âm dương, Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là khí dương, Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là khí âm. Ở trong Tứ Tượng Giáp Ất là Thiếu Dương, Bính Đinh là Thái Dương; Canh Tân là Thiếu Âm, Nhâm Quý là Thái Âm; Mậu Kỷ là khí trung tính. Ở trong ngũ hành, Giáp Ất là khí mộc, Bính Đinh là khí hỏa, Mậu Kỷ là khí thổ, Canh Tân là khí kim, Nhâm Quý là khí thủy, đây chính là cách luận thuật ngũ khí của 【 Trích Thiên Tủy 】. Trong đó căn cứ định tính âm dương, can dương và can âm ở trong Hà Đồ ngũ khí giao cấu có 1,6 Giáp Kỷ hợp; 2,7 Ất Canh hợp; 3,8 Bính Tân hợp; 4,9 Đinh Nhâm hợp; 5,10 Mậu Quý hợp. Quy luật pháp tắc là dương có năng lực cho ra, âm có công năng thu vào. Thì Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là 'Khí sinh Thế', Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là 'Thế thành Khí' . Can dương là khí cường, can âm là khí nhược. Đây chính là nguyên nhân chân chính tại sao lực của âm khắc âm cùng dương khắc dương, âm sinh âm cùng dương sinh dương lớn; lực âm sinh dương cùng dương sinh âm, âm khắc dương cùng dương khắc âm nhỏ hơn.
Thuật toán mệnh Âm Dương Hình Khí, Lý bắt đầu là ở Thái Cực. Từ Lý Thái Cực quy định, Lưỡng Nghi một âm một dương cùng chung cấu thành tồn tại sinh thành một Thái Cực, mới có thể đối ứng vạn vật vạn sự cát hung cân bằng. Từ chỗ này thì biết, sự vật chân chính tồn tại cát hung là do âm dương quyết định, âm dương quyết định tự nhiên (Thể), cùng quyết định xã hội (Dụng). Mà diễn sinh ngũ hành cùng thập thần chỉ qua là một loại trạng thái âm dương đối với sự tồn tại của sự vật, chỉ có thể thuyết minh mức độ cát hung và chuyển biến hình khí, mà căn bản không phải là trình bày rõ Thái Cực tồn tại cát hung.