Trước là dụng Canh sau là dụng Đinh, đó là chính dụng, Thủy vượng lấy Mậu thổ để cứu, cho nên sự phối hợp này là không thể thiếu được vậy. Theo Giáp mộc sinh vào tháng 10, gặp Thực thương sinh Tài, chắc chắn là Quan võ đại quý, lí luận này quyển sách gốc chưa có ghi chép. Bởi Nhâm thủy thái vượng, sinh phản thành khắc, gặp Tài phá Ấn, hóa kị thành hỉ, phản khắc thành sinh, gặp thêm Bính Đinh, hàn Mộc hướng dương, không có thì không hề quý, không trở thành Quan võ quý hiển được, chính là lí lẽ còn chưa được lí giải minh bạch. Xem mệnh tạo dưới đây.
Tân Tị, Kỷ Hợi, Giáp Tý, Giáp Tý.
Kim thổ đắc vị, Quan đến nhất phẩm.
Theo mệnh tạo này Kim Thổ đắc vị, Kim sinh ở Tỵ, Thổ lộc ở Tỵ . Vậy tạo này Thủy vượng Mộc trôi, chuyên dụng Bính Mậu trong cung Tỵ, dụng Tài tổn Ấn, dụng Bính Điều hậu, do đạt được công dụng trở thành phản sinh, sau trung niên, vào vận phương Nam, đương nhiên phú quý, tuổi trẻ vận Kim Thủy, khó tránh khỏi nghèo khó bần cùng, trọng yếu là ở Hỏa Thổ, hai chữ Kim Thổ, có thể là sai lầm của Hỏa Thổ chăng. Mệnh của Minh Tiền thừa tướng.
Tân Sửu, Kỷ Hợi, Giáp Thìn, Nhâm Thân.
Đây là mệnh đăng hoa phất kiếm ( múa Kiếm dưới đèn hoa)*, được tấn phong ân huệ theo một con đường khác thường nào đó, thê hiền tử tiếu.
Theo mệnh có Nhâm Thân Quý Dậu là thanh kiếm, Giáp Thìn Ất Tị người lạ, giờ được Nhâm Thân Quý Dậu, là mệnh đăng hoa phất kiếm, thấy trong sách Lan Đài Diệu Tuyển, thực ra Tài Quan cách vậy.
* Giải thích về Đăng hoa phất kiếm: ( Người dịch sưu tầm). Giá trị của mệnh là Bạc kim chiếu rọi, cực là thanh quý, cũng cần Thủy Mộc tương sinh, mới có thể hiển đạt; Sa trung, Thoa xuyến nhị kim đều cát; Kiếm phong nhất kim, gọi là Đăng hoa phất kiếm càng cát, Lạp kim không thích hợp. Ngũ hành gặp thổ, cần phòng khắc phá. Nếu như Thổ tường thành có thể an thân, thì Ốc thượng thổ có thể che phủ, ngày giờ cùng gặp chủ phú quý, Sa thổ có Mộc cũng chủ có y thực, ngoài ra Thổ không dụng. Hỏa yêu đồng loại, nhưng lại sợ gió thổi. Tích lịch là Hỏa thần biến hóa, tất mang gió tới, thì Hỏa này khó tồn; Thiên thượng, Lô trung hai Hỏa gặp nhau, hung nhất. Kiểm tra lại Diệu tuyển, có Khôi tinh cách, chỉ Nam cách, lấy Giáp Thìn người lạ, ngày giờ gặp Ngọ Mùi là đúng; có Hỏa Thổ nhập đường cách, do Hỏa này sợ phong, ngày giờ gặp Bính Tuất Đinh Hợi tức Ốc thượng thổ, thì Hỏa ở trong phòng, lại được thêm dầu để cháy sáng, lại càng quý hiển.
Tân Sửu, Kỷ Hợi, Giáp Thìn, Đinh Mão.
Không được khoa Giáp, nhưng có danh vị, bởi thế dụng Đinh là lý do.
Theo Mộc mùa Đông không thể thiếu Hỏa, gặp Đinh Kỷ xuất can, là Thương quan sinh Tài cách.
Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tuất, Bính Dần.
Chuyên dụng Mậu thổ tiên bần hậu phú.
Theo mệnh tạo này thì Tân Nhâm cùng thấu, Thủy vượng Mộc nổi trôi. mừng có Bính Dần ở trụ giờ, Giáp Bính Mậu cung Dần đều có khí, dụng Mậu thổ cung Tuất làm Thực thần sinh Tài cách, đương nhiên về già cát lợi.
Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tý, Kỷ Tị.
Hóa thổ thất lệnh, Cô Quả nhiều đau khổ bệnh tật, tuổi già có y lộc.
Căn cứ vào mênh tạo trên, Hóa thần thì mừng hành đất vượng, Giáp Kỷ hóa thổ, phải lấy hỏa làm dụng vậy, Nhâm Tân cùng thấu, Thủy Kim Thổ phập phù phóng túng, phá cách rõ ràng, mừng Bính Mậu cung Tỵ của trụ giờ đắc dụng, Bính Thìn Đinh Tị hai vận cuối đời, y lộc không thiếu.
Mậu Thìn, Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Hợi
Mậu xuất Thiên can, ngăn cản dòng chảy của Thủy. Hiệu viết lục Giáp xu Càn, Quan đến Phủ doãn.
Theo như chi Hợi là cung Càn, ngày Lục Giáp sinh tháng Hợi, giờ Hợi là Lục Giáp xu Càn cách, Mậu xuất thiên can ngăn cản Thủy chảy, chính là dụng Tài tổn Ấn vậy.
Bính Dần, Kỷ Hợi, Giáp Thìn, Giáp Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 23 tháng 9 năm thứ 25 đời vua Khang Hi triều Thanh.
Mệnh Nhạc Chung Kì: là cách Hổ nằm ở gò đất hoang. Dụng Thực thần sinh Mộc (điều hầu chăng??), tứ trụ không có Kim là quý.
Tân Tị, Kỷ Hợi, Giáp Tý, Giáp Tý.
Kim thổ đắc vị, Quan đến nhất phẩm.
Theo mệnh tạo này Kim Thổ đắc vị, Kim sinh ở Tỵ, Thổ lộc ở Tỵ . Vậy tạo này Thủy vượng Mộc trôi, chuyên dụng Bính Mậu trong cung Tỵ, dụng Tài tổn Ấn, dụng Bính Điều hậu, do đạt được công dụng trở thành phản sinh, sau trung niên, vào vận phương Nam, đương nhiên phú quý, tuổi trẻ vận Kim Thủy, khó tránh khỏi nghèo khó bần cùng, trọng yếu là ở Hỏa Thổ, hai chữ Kim Thổ, có thể là sai lầm của Hỏa Thổ chăng. Mệnh của Minh Tiền thừa tướng.
Tân Sửu, Kỷ Hợi, Giáp Thìn, Nhâm Thân.
Đây là mệnh đăng hoa phất kiếm ( múa Kiếm dưới đèn hoa)*, được tấn phong ân huệ theo một con đường khác thường nào đó, thê hiền tử tiếu.
Theo mệnh có Nhâm Thân Quý Dậu là thanh kiếm, Giáp Thìn Ất Tị người lạ, giờ được Nhâm Thân Quý Dậu, là mệnh đăng hoa phất kiếm, thấy trong sách Lan Đài Diệu Tuyển, thực ra Tài Quan cách vậy.
* Giải thích về Đăng hoa phất kiếm: ( Người dịch sưu tầm). Giá trị của mệnh là Bạc kim chiếu rọi, cực là thanh quý, cũng cần Thủy Mộc tương sinh, mới có thể hiển đạt; Sa trung, Thoa xuyến nhị kim đều cát; Kiếm phong nhất kim, gọi là Đăng hoa phất kiếm càng cát, Lạp kim không thích hợp. Ngũ hành gặp thổ, cần phòng khắc phá. Nếu như Thổ tường thành có thể an thân, thì Ốc thượng thổ có thể che phủ, ngày giờ cùng gặp chủ phú quý, Sa thổ có Mộc cũng chủ có y thực, ngoài ra Thổ không dụng. Hỏa yêu đồng loại, nhưng lại sợ gió thổi. Tích lịch là Hỏa thần biến hóa, tất mang gió tới, thì Hỏa này khó tồn; Thiên thượng, Lô trung hai Hỏa gặp nhau, hung nhất. Kiểm tra lại Diệu tuyển, có Khôi tinh cách, chỉ Nam cách, lấy Giáp Thìn người lạ, ngày giờ gặp Ngọ Mùi là đúng; có Hỏa Thổ nhập đường cách, do Hỏa này sợ phong, ngày giờ gặp Bính Tuất Đinh Hợi tức Ốc thượng thổ, thì Hỏa ở trong phòng, lại được thêm dầu để cháy sáng, lại càng quý hiển.
Tân Sửu, Kỷ Hợi, Giáp Thìn, Đinh Mão.
Không được khoa Giáp, nhưng có danh vị, bởi thế dụng Đinh là lý do.
Theo Mộc mùa Đông không thể thiếu Hỏa, gặp Đinh Kỷ xuất can, là Thương quan sinh Tài cách.
Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tuất, Bính Dần.
Chuyên dụng Mậu thổ tiên bần hậu phú.
Theo mệnh tạo này thì Tân Nhâm cùng thấu, Thủy vượng Mộc nổi trôi. mừng có Bính Dần ở trụ giờ, Giáp Bính Mậu cung Dần đều có khí, dụng Mậu thổ cung Tuất làm Thực thần sinh Tài cách, đương nhiên về già cát lợi.
Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tý, Kỷ Tị.
Hóa thổ thất lệnh, Cô Quả nhiều đau khổ bệnh tật, tuổi già có y lộc.
Căn cứ vào mênh tạo trên, Hóa thần thì mừng hành đất vượng, Giáp Kỷ hóa thổ, phải lấy hỏa làm dụng vậy, Nhâm Tân cùng thấu, Thủy Kim Thổ phập phù phóng túng, phá cách rõ ràng, mừng Bính Mậu cung Tỵ của trụ giờ đắc dụng, Bính Thìn Đinh Tị hai vận cuối đời, y lộc không thiếu.
Mậu Thìn, Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Hợi
Mậu xuất Thiên can, ngăn cản dòng chảy của Thủy. Hiệu viết lục Giáp xu Càn, Quan đến Phủ doãn.
Theo như chi Hợi là cung Càn, ngày Lục Giáp sinh tháng Hợi, giờ Hợi là Lục Giáp xu Càn cách, Mậu xuất thiên can ngăn cản Thủy chảy, chính là dụng Tài tổn Ấn vậy.
Bính Dần, Kỷ Hợi, Giáp Thìn, Giáp Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 23 tháng 9 năm thứ 25 đời vua Khang Hi triều Thanh.
Mệnh Nhạc Chung Kì: là cách Hổ nằm ở gò đất hoang. Dụng Thực thần sinh Mộc (điều hầu chăng??), tứ trụ không có Kim là quý.