KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Luận KIM

descriptionLuận KIM EmptyLuận KIM

more_horiz
Luận kim


Kim lấy âm làm Thể, bên trong hàm chứa tinh lực chí dương, rất cương kiện, khác biệt hoàn toàn với mọi vật, nếu chỉ âm mà cứng rắn thì giống như băng đá, gặp hỏa sẽ tan chảy.

Tổng luận về tính chất của kim trong một năm mà nói, mộc hỏa là dương, kim thủy là âm, vì thế kim lấy chí âm làm thể. Song khí của ba tháng mùa thu làm túc sát (làm vạn vật xơ xác tiêu điều), chẳng có vật gì là không thể bị tàn phá cả, nếu kim không đủ tính dương cương, làm sao có thể phá diệt uy hiếp vạn vật được, kiên cường là điểm khác biệt độc nhất chỉ có ở Canh kim vậy. Trích Thiên Tủy có nêu: Canh kim chứa Sát, là cứng rắn nhất, bởi tính chất âm ngoại dương nội mà đủ cương kiệngây ra tác dụng túc sát. Chỉ âm là chẳng cứng, như Tân kim vậy, gặp hỏa thì tiêu chảy, nên Bính Tân tương hợp thì hóa thành thủy vậy.

Bởi vậy, kim không được nung luyện không thể thành khí cụ. Kim trọng hỏa khinh, khó quản lý công việc. Kim khinh hỏa trọng, bị nung luyện mà tiêu tan. Kim cực hỏa thịnh, là cách hoàn mỹ nhất. Kim hỏa đầy đủ, gọi là Chú ấn (đúc ấn), phạm chữ Sửu sẽ làm hỏng khuôn mẫu (khuôn mẫu để đúc ấn). Nhiều kim hỏa thì gọi là Thừa hiên (ngồi xe), gặp tử suy trái lại thành bất lợi. Mộc hỏa luyện kim, thành danh cũng nhanh mà mất danh cũng chóng. Thuần kim ngộ thủy, kinh doanh phát đạt trở lên giàu có. Kim có thể sinh thủy, thủy vượng thì kim chìm. Thổ có năng lực sinh kim, kim nhiều thì thổ tiện (hèn). Kim vô thủy thì khô kiệt, thủy trọng thì chìm đắm vô dụng. Kim không có thổ thì không thể sống, thổ trọng lại bị chôn vùi chẳng lộ ra. Lưỡng kim lưỡng hỏa là tốt nhất, lưỡng kim lưỡng mộc thì Tài sung túc. Nhất kim sinh tam thủy, lực yếu khó thắng. Nhất kim đắc tam mộc, ngu đần tự làm hại bản thân. Kim thành thì hỏa diệt (kim lớn mạnh mà hỏa đã tiêu vong), vì kim chưa thành khí cụ nên mong muốn gặp lại hỏa. Kim đã thành khí, không muốn thấy hỏa nữa. Kim đến Thân Dậu Tị Sửu, cũng có thể nói đã trưởng thành vậy, vận hỷ Tây Bắc, Nam phương thì bất lợi.

Tiếp theo nói về Canh kim, cách dùng khi thấy hỏa thổ mộc thủy. Canh kim hỷ Đinh hỏa, Tân kim hỷ Quý thủy, Canh thì mạnh mẽ, không có hỏa nung luyện không thể thành khí cụ, cho nên dụng hỏa là trọng yếu nhất. Kim trọng hỏa khinh, hỏa không đủ lực để luyện kim, hỏa trọng kim khinh, kim bị nấu chảy, bởi vậy hai hành kim hỏa phải lấy tương đều (lực lượng đồng đều, bằng nhau) làm quý. Kim hỏa tương đều, cách gọi là Chú ấn, thấy Sửu thì kim nhập mộ, lực không thể cân bằng, vì vậy gọi là tổn mô (hỏng khuôn). Kim hỏa lưỡng vượng, cách gọi Thừa hiên, nếu đi qua đất tử tuyệt, ngược lại thành bất lợi, kim mà qua đất tử suy hỏa thành quá vượng, hỏa qua đất tử suy thì kim thành quá vượng, đều là mất cân bằng cả. Mộc hỏa luyện kim chính là dụng Tài Quan vậy, hỏa đắc mộc sinh, kim vượng dụng Quan, nhất định kim thành mũi nhọn, nhưng vận dụng quá mức thì không thành, cần nhanh chóng giảm xuống (cần rút củi đáy nồi). Kim hỏa lấy lưỡng đình (cân bằng) làm đẹp, cho nên lưỡng kim lưỡng hỏa là tốt nhất, kim thành hỏa diệt, kim đến nơi Thân Dậu là thành công, hỏa đến Thân Dậu chính là nơi bệnh tử, bởi thế khi luận cách cục, ở cách bình thường thì mừng lấy hỏa làm dụng, nếu biến cục thành cách chuyên vượng (ngoại cách), gọi là tòng cách, không mong thấy hỏa, vận hỷ Tây Bắc, kị Đông Nam. Chưa thành khí cụ, là cách cục bình thường. Đã thành khí cụ, địa chi tụ phương cục (Tây phương kim cục) thì thành biến cục. Chú ấn và Thừa hiên đều là cách cục quyền cao hiển quý rõ ràng, Canh kim hỷ Đinh làm dụng, gặp Quan tinh thì thủ quý. Kim thấy thủy làm Thực thần Thương quan, thuần kim tức chỉ Tân kim, hỷ Thực Thương sinh Tài, vậy mới nói kinh doanh phát đạt trở lên giàu có. Nhưng cường kim ngộ thủy thì tiết tú còn kim thiểu mà kiến thủy thì khí kim bị tiết hết, chìm xuống thành vô dụng, do đó kim sinh ở mùa Đông, thủy vượng là lúc thấy thủy nhiều, kim thủy Thương quan, không thể thủ quý vậy. Kim gặp thổ là Ấn, thổ bạc nhược mà nhuận (không khô) thì có thể sinh kim, nhưng thổ dày mà táo (khô, thiếu nước) trái lại kim bị chôn vùi. Kim thấy mộc làm Tài, thân vượng có thể gánh nỗi Tài, tất nhiên là phú quý; thân nhược Tài đa, ngược lại thành khốn khổ vì Tài. Bởi vậy, lưỡng kim lưỡng mộc, sức mạnh tương đồng, tiền tài đầy đủ, nếu nhất kim tam mộc, mộc cứng thì kim khuyết, trái lại ngu dốt tự hại bản thân mình.

Kim trong tháng mùa Xuân, hàn lạnh còn chưa hết, quý ở hỏa khí làm vinh (tươi tốt), tính chất nhu nhược, muốn có thổ dày phụ giúp.


Kim ở mùa thu, khí túc sát, sang tháng mùa Xuân, mặt đất trở lại phần dương, tác dụng của túc sát không còn nữa, cho nên kim tại chính nguyệt (tháng Dần) là tuyệt địa, tháng 2 tháng 3 lúc kim đang được ấp ủ ở đất Thai Dưỡng, hình thể bên ngoài dường như bị tiêu mòn mất tích, tính thì mềm chất thì yếu, đó là thể tính của Xuân kim vậy. Nếu luận về dụng, phù hay ức đều khó cả, quý ở hỏa khí làm vinh, dựa vào hỏa để trừ cái lạnh, không phải dùng khắc (không lấy hỏa khắc kim), ấm áp mà nhuận (hơi ướt) thì kim mới thành hữu dụng, bởi vậy hỏa cần có thổ để kiêm dụng, không có hỏa thì thổ hàn chẳng thể dưỡng kim, không thổ thì hỏa liệt (cháy mãnh liệt), ngược lại sẽ khắc kim. Chỗ này là nói về kim ở đầu mùa xuân vậy. Vào tháng 2,3 dương khí dần dần thịnh hành, cần thấp thổ sinh kim, bớt hỏa để ôn hòa, nếu hỏa vượng mà vô thủy thì e quá hanh khô, thể kim đang yếu ớt sẽ không chịu nổi nung luyện. Tóm lại xuân kim không thể không có thổ, mà thổ nhiều thì nguy cơ kim bị vùi lấp, không thể không có hỏa, mà hỏa vượng lại lo bị nung chảy. Nói "thổ dày làm phụ trợ", ba tháng mùa Xuân là lúc mộc vượng, thổ khí hư phù, không dày thì không thể trợ giúp kim thành dụng được.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thủy tịnh thì tăng thêm hàn lạnh, kim khó mà sắc bén; mộc vượng thì tổn lực, bị gẫy cùn mà sinh ra lo lắng; kim đến thành Tỉ trợ, sự giúp đỡ vô cùng kỳ diệu (thật đúng lúc), nhưng Tỉ mà không có hỏa, mất đồng minh mà chẳng tốt lành.

Thủy là Thực Thương của kim, mùa xuân kim yếu ớt, sao kham nổi bị cướp đoạt tiết khí. Đầu xuân, khí hàn lạnh dư lại chưa hết, thủy thịnh làm tăng thêm rét mướt. Mộc với kim là Tài, mộc vượng thừa quyền, kim suy sao có thể khắc chế mộc, ắt phải chịu khốn đốn. Cho nên xuân kim thấy thủy thịnh mộc vượng cần Tỉ Kiếp trợ giúp có thể giải nguy, nhưng có Tỉ Kiếp mà không có hỏa, thì ngại (thổ) Ấn cố chấp mà không linh hoạt, cần có hỏa tương chế mà thành dụng. Tóm lại, thể kim cứng rắn kiên cố, phải sắc bén mới sử dụng được, sinh ở tháng mùa Xuân, không phải mùa của kim nên mất đi công dụng vốn có, hoàn toàn nhờ vào lực trợ giúp, đòi hỏi phối hợp trung hòa, nhưng đó không phải việc dễ dàng thực hiện.

Kim trong tháng mùa Hạ, đặc biệt yếu đuối, hình chất chưa có, càng sợ Tử Tuyệt.

Kim sinh ở Tị (kim Trường sinh tại Tị), tháng 4,5,6 chính là kim ở vị trí Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, tại sao lại càng nhu nhược vậy? là bởi giữa hỏa kim (hạ thu) còn có thổ ngăn trở, thổ gửi vượng ở đất hỏa, mà thổ mùa Hạ cực kì khô hanh không thể sinh kim được, cho nên kim tuy sinh tại Tị nhưng hình chất chưa đầy đủ, so với mùa Xuân kim càng nhu nhược hơn, đó là thể tính của kim trong mùa hè. Nếu địa chi của trụ năm, ngày, giờ lại lâm Tử Tuyệt, càng không thể trụ vững để phát huy tác dụng được.

Hỏa nhiều không đáng ngại, thủy thịnh có cát lợi, thấy mộc thì trợ quỷ tổn thương thân, gặp kim giúp đỡ thêm cường tráng, thổ mỏng là hữu dụng nhất, thổ dày thì kim bị chôn vùi không phát sáng.

Hạ kim thể tính nhu nhược, tại sao không sợ hỏa nhiều? Bởi vì tháng Tị Ngọ Mùi đều ám tàng thổ, ám thổ tuy không thể sinh kim, nhưng có thổ ngăn cách, hỏa cũng không thể nung chảy kim vậy. Cần nhất là thấy thủy, đắc thủy thì chế hỏa nhuận thổ để sinh kim. Kiến mộc thì khắc thổ, trợ hỏa khắc kim. Hỏa là Quan của kim, khắc thân là quỷ, tức là Sát vậy. Kim nhu nhược hỷ thổ sinh trợ, song tử kim nghi ngại bùn nhão che phủ bao trùm, tức là thổ dày thì chôn kim, cho nên kim mùa Hạ hỷ thổ, chỉ cần có một hai điểm, ngoài ra cần có thủy nhuận. Thổ nhuận sinh kim là thích hợp nhất, ngoài ra Hạ kim hỷ thủy bên ngoài tưới mát, lại cần Tỉ trợ, bởi thủy trong mùa hạ là tuyệt địa, hỏa thổ đều khô, nước không có nguồn thì dễ khô cạn, nhất định cần có kim sinh thì nước cuồn cuộn không dứt, như vậy mới tỏ rõ công lao kiềm chế hỏa nhuận thổ, không chỉ dừng ở lợi ích bang phù.

Kim trong tháng mùa Thu, nắm quyền được lệnh.

Mùa thu khí túc sát, chính là mùa kim thần nắm lệnh đương quyền, ngoại âm nội dương, tính chất kiên cường, khác biệt hoàn toàn với chúng sinh, muôn vàn cây cỏ gặp đều bị tàn phá, chỗ này là thể tính của Thu kim vậy.

Hỏa tới nung luyện, cùng thành vật liệu để đúc chung đỉnh (chuông và đỉnh), thổ nhiều bồi dưỡng, ngược lại làm cho kim khí ngoan trọc (trơ và vẩn đục), gặp thủy thì thanh trong thông minh mà càng thanh tú, gặp mộc thì ra oai gọt đẽo, kim trợ càng thêm cứng rắn, quá cứng thì dễ gẫy, khí trọng càng vượng, cực vượng thì dễ bị phá vỡ.

Mùa thu kim quá rắn chắc, quá sắc nhọn, được hỏa nung luyện, chính thành vật liệu đúc chung đỉnh. Đang lúc chỉ có kim đắc lệnh, nào cần làm phiền đến Ấn thụ tương sinh, nếu có thổ nhiều bồi dưỡng, ngược lại làm kim khí thêm ngoan trọc, cho nên Thu kim dụng Quan Sát, hỷ Tài tương sinh, không nên lấy Ấn phụ trợ, lấy tổn làm ích vậy (những lời trên là chỉ Canh kim). Lời sau chỉ Tân kim:

Cường kim đắc thủy
Phương tỏa kỳ phong
Khí vượng đắc tiết
Kim thanh thủy tú
Dũ hiển kỳ tinh thần
Vi kim thủy thương quan cách.

(Cường kim mà được thủy, là cách hạn chế sự sắc nhọn, khí vượng mà được tiết (sinh thủy), kim thêm thanh thủy thêm tú, tinh thần càng lộ rõ, làm thành kim thủy Thương quan cách) (1).

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Mộc ở mùa thu rất điêu tàn, lấy vượng kim khắc tử mộc (mộc đã chết, héo khô), như chặt cành khô củi mục, tha hồ mà thị uy. Mộc là Tài của kim, lấy thủy tưới mộc, còn kim đảm nhiệm (sinh thủy), thành Thực thần sinh Tài cách, đều là thượng cách cả. Thu kim vượng vô cùng, lại được kim trợ thêm thì khí trọng mà quá cương vượng, không có hỏa khắc hoặc thủy tiết, đều mãn cực mà gây ra tai họa, quá cương thì gãy, quá vượng thì đứt, chính là xu thế tất nhiên thôi, 2 câu này ý tứ trùng nhau.

Kim trong tháng mùa Đông, hình hàn tính lãnh (hình thể, tính chất đều lạnh giá)

Kim đến mùa Đông, khí vượng đã qua, bị tiết khí mà yếu nhược. Về hình chất của kim, thủy hàn túc bởi lúc mùa đông rét đậm, kim cùng khí hậu cực lạnh tương tác với nhau, tính lạnh càng khốc liệt hơn, đó là thể tính của Đông kim.

Mộc nhiều (kim) khó mà đẽo gọt được; thủy thịnh (kim) không khỏi họa bị chìm sâu. Thổ có thể chế thủy, thân thể kim bớt lạnh, hỏa đến trợ thổ, tử mẫu đều đạt thành công quả. Hỷ Tỉ Kiên, khí suy muốn tương phù cần thêm Quan Ấn (hỏa thổ), ân cần săn sóc mới có lợi.

Ba tháng mùa Đông, thủy vượng nắm lệnh, khí kim bị ám tiết. Kim suy không thể khắc mộc, thấy mộc nhiều thì không thể gọt đẽo được, cho nên mới nói không thể dụng Tài vậy. Thủy được thời lệnh vượng khí, kim gặp thủy xác thực là Thương quan. Kim có thể sinh thủy, thủy vượng kim chìm, suy kim gặp vượng thủy có họa bị chìm sâu, không thể lấy Thương quan làm dụng. Thổ có thể chế thủy, kim tàng trong thổ, thể tính kim thực ra chẳng lạnh, hình tàng thì dụng tức (hình thể kim mà tàng ẩn thì tác dụng cũng dừng lại, không phát huy được), kim không có lợi ích gì, cần phải lấy hỏa cứu tế, hỏa thổ tương sinh, kim được chăm sóc ân cần, tác dụng mới có thể lộ ra, có vậy tử mẫu công quả đạt thành. Kim suy được Tỉ Kiếp tụ khí tương trợ, cũng là hữu ích, nhưng mùa rét kim tuy nhiều cũng khó lộ rõ tác dụng. Tóm lại, đông kim không rời xa Quan Ấn, Quan là hỏa, Ấn là thổ. Chỉ gặp Ấn thôi cũng không có ích gì (như thiên can thấy Kỷ, địa chi thấy Thìn Sửu, chỉ là bùn nhão cùng bị đóng băng mà thôi), phải có Quan Sát cùng trợ giúp, cách đó mới đạt được lợi tích của ôn dưỡng (sự chăm sóc ân cần). Kim thủy Thương quan, không thể cách lý Quan; thổ kim Ấn thụ, cũng không thể khuyết Quan, vô Quan bất thành cách, lặp ngôn để thấy rõ tầm quan trọng vậy.

Chú thích:

(1) Đoạn này ý của Từ Nhạc Ngô là: Mùa thu kim vượng, Canh kim thì dụng hỏa (Quan Sát), hỷ Tài (mộc). Tân kim dụng thủy tiết, thành Thương quan cách. Kim thủy Thương quan thì không sợ kiến Quan mà ngược lại thích Quan tinh, bởi vì Tân kim nhật chủ, lấy Nhâm thủy là Thương quan, Bính là Quan, Bính Tân hợp hóa thủy thành dụng, chính là ý này đây. (ND)

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Trích trong "Cùng Thông Bửu Giám Toàn Tập"
(Dư Xuân Đài, Từ Nhạc Ngô bình chú, Nguyễn Lê biên dịch)

Chính nguyệt Canh kim (Tháng Giêng, Dần, Lập Xuân)

- Đoạn văn trong ngoặc là nguyên văn, còn lại do Từ Nhạc Ngô bình chú -

(Tháng giêng khí mộc dần dần vượng, khắc thổ thổ mất, không thể sinh kim, mà khí kim bị hàn lạnh chưa hết, trước dụng Bính để làm ấm tính Canh, sau dụng Giáp để khai thông thổ dày, thì thế lực của thổ không vùi kim.)
Canh kim tới tháng Dần là đất tuyệt địa, mộc vượng nắm lệnh, kim không dễ dàng khắc, Dần cung hỏa thổ cùng sinh, táo thổ không thể sinh kim, thổ dày trái lại mà chôn vùi kim, cho nên Xuân kim nhược, hỉ Tỉ Kiếp, không hỉ Ấn sinh. Tổng luận nói: Kim là Tỉ trợ giúp, giúp đỡ là tốt nhất vậy, như lấy thổ tương sinh, thì cần Kỷ thổ, kỵ Mậu thổ. Tính nhu chất nhược, muốn được thổ dày là lấy sự giúp đỡ vậy, có Tỉ có Ấn, cần dụng Bính Giáp, Canh kim hỉ Đinh hỏa nung luyện, chỗ này là nói dụng Bính hỏa là ý điều hậu vậy, Dần cung Mậu thổ trường sinh, lấy Giáp mộc khai thông thổ, là phản sinh thành công, tháng giêng Canh kim, dụng Tài sinh Sát, kiêm có ý phù thân, cho nên là thượng cách.

(Bính Giáp cùng thấu, là khoa giáp có chắc chắn, phú quý không phải nhẹ, cả hai mà chỉ thấu một, chỉ là tiến cử giám sát sinh viên, Bính tàng, là khác đường hiền chức.)
Đọan văn ở trên, tháng giêng mộc hỏa, thế lực cùng đang hành, dù không xuất can, dụng vẫn tồn tại, hỉ dụng cùng cung cùng thấu, dụng càng rõ ràng xuất sắc, cho nên phú quý không ít vậy, hai mà thấu một, khác đường hiển đạt, tức làm kẻ nho sĩ thanh tú mà thôi, chỗ này ghi chép ở thời đại nhà Minh, là tiến cử giám sát sinh viên, ở thời Minh rất có địa vị, là trông coi cả một quận vậy.

(Hoặc tứ trụ nhiều thổ, Giáp thấu là quý, Giáp tàng là phú, nếu thấy Canh kim phá Giáp, phú quý đều mất)

Chỗ này nói dụng Tài phá Ấn, Xuân Canh dù có nhược, không thể dụng Mậu thổ Thiên Ấn, là sợ kim chết bởi cái bùn nhão, tứ trụ nhiều Mậu, không phải Giáp mộc không thể xuất can, nếu thấy Canh kim Tỉ kiên đoạt Tài, danh lợi đều hư tổn.

(Hoặc tứ trụ nhiều Đinh xuất can, lấy thêm Mậu Kỷ mà không có thủy, cũng chủ phú quý là sao? Dần Giáp dẫn Đinh, Đinh hỏa có căn, không có thủy là bệnh, tên là Quan tinh hữu khí, Tài vượng sinh phù, cho nên lấy suy ra phú quý, có hỏa dụng thổ, thì thổ là Thê, kim là Tử)

Chỗ này là nói Quan vượng dụng Ấn, Xuân Canh không cần nung luyện, nếu thấy Đinh hỏa xuất can, thì không thể không dụng Ấn để hóa, nhưng cần Kỷ thổ, không cần Mậu thổ, dụng Ấn sao đạt chủ phú quý? Là do cung Dần có Giáp mộc lâm quan, dẫn sinh Đinh hỏa Tài vượng sinh Quan, Quan tinh hữu khí, càng được Mậu Kỷ dẫn hóa, không tổn thương Canh kim, cho nên cũng lấy phú quý mà suy ra, cách cục tuy thủ Tài Quan, thực tế là lấy thổ làm dụng vậy, có hỏa mới có thổ, cho nên thổ là Thê, kim là Tử.

Hoặc chi thành hỏa cục, Nhâm thủy xuất can, có Canh là chủ đại phú quý, không có Canh là chủ tiểu phú quý, không có Nhâm Quý, là người tàn tật, chỗ này là nói dụng Nhâm thủy, là Thực Thần chế Sát vậy, là Quan Sát hội cục, nhất định cần Nhâm Quý thủy để cứu giúp, nhưng khí thủy tới cung Dần là bệnh địa, không có kim tương sinh, thì thủy không có gốc, mà Canh kim lâm tuyệt địa, không thấy Canh kim Tỉ trợ, thì Thực thần chế Sát, cũng sợ khắc tiết giao gia, cho nên có Canh chủ đại phú quý, không có Canh chủ tiểu phú quý, như chi thành hỏa cục mà không có Nhâm Quý xuất can đến cứu, thì kim bị hỏa nung chảy, là mệnh tàn tật yểu chiết.

(Hoặc Giáp bị kim tổn thương, không có Đinh không có Bính, là thường nhân, hoặc Bính gặp Quý vây khốn, không có Mậu xuất ra chế, thì cũng là mệnh bình thường)

Tổng kết đoạn văn ở trên:
Tóm lại, tháng giêng Canh kim, dụng Giáp là đứng đầu, Đinh hỏa là sau, Xuân kim nhiều hỏa, không yều thì bần hàn, dương kim tối hỉ có hỏa luyện, nung luyện có thái quá, trái lại là chủ bôn lưu.

Tiết này, bản sao loại bỏ phần chìa khóa căn bản, xem phụ lục ở sau.

Các ví dụ:

Bính Dần, Canh Dần, Canh Tuất, Bính Tuất
Nung chế thái quá, hoàn toàn không có một giọt thủy nhuận kim, Ngọ vận mắt bị lồi lên.

Bính Tuất, Canh Dần, Canh Dần, Mậu Dần
Khiếm thủy, cô bần.

Tân Tị, Canh Dần, Canh Tuất, Bính Tuất
Chi thành hỏa cục, vô thủy xuất cứu, hữu đạo tăng nhân.
Ghi chú: 3 tạo trên, chi đều thành hỏa cục mà không có thủy để cứu, là mệnh cô bần khó tránh tàn tật.

Đinh Sửu, Nhâm Dần, Canh Tý, Ất Dậu
Dụng Bính làm ấm, tiếc là hợp nhiều không quý, bản thân chỉ có phú.
Ghi chú: Ngày Canh giờ Ất Dậu, nhật nguyên không nhược, dụng Bính làm ấm, mà Nhâm Quý vây khốn trụ Bính Đinh, chỉ có thể dụng Tài hóa Thực Thương mà sinh Quan Sát, cho nên là phú mà không quý vậy.

Nhâm Tý, Nhâm Dần, Canh Thân, Canh Thìn
Thủy thịnh kim hàn, chuyên dụng Bính Mậu, cho nên cốt nhục thê lương, thiếu niên gặp cảnh hình khốn, về già gặp vận Đông Nam, hiển đạt.
Ghi chú: Tạo này kim thủy lưỡng vượng, thấy Nhâm xuất can, không thể không kiêm dụng Mậu thổ, không bằng cung Dần có mộc vượng thổ bị sụp đổ, cho nên thiếu niên gặp cảnh hình khốn, trung niên Nam phương vận, Bính hỏa vượng địa, hóa mộc sinh thổ, thích hợp lúc về già vận gặp hanh thông vậy.

Nhâm Tý, Nhâm Dần, Canh Thân, Bính Tuất
Thủ bị (quan Thái Thú ngày xưa).
Ghi chú: Tạo này Bính hỏa xuất can, duy chỉ là do chỗ nhâm thủy vây khốn, cho nên địa vị không lớn.

Kỷ Mùi, Bính Dần, Canh Tuất, Bính Tuất
Dụng Giáp dẫn Đinh, lại thêm lấy Kỷ thổ xuất can, không có thủy là bệnh, bất quá chỉ có đủ cơm áo, nếu được Đinh thấu, quý không thể nói.
Ghi chú: Nếu được Đinh thấu nói là sinh giờ Đinh Hợi vậy, Quan Sát vượng dụng Ấn, cách phú quý.

Quý Mão, Giáp Dần, Canh Ngọ, Bính Tuất
Tàn tật cô bần.
Ghi chú: Chi kim hỏa cục, Quý thủy vô căn, khí tiết ở mộc, hỏa vượng kim bị nấu chảy, tàn tật không nghi ngờ vậy, lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Tân Dậu, Canh Dần, Canh Tý, Kỷ Mão.
Hàm Phong năm thứ 11, tháng giêng, ngày 11, giờ Mão.
Mệnh Vương Chiêm Nguyên: Kỷ thổ chế thủy, niên thượng Dương Nhận xuất can, chuyên dụng Bính hỏa, vận hành Đinh Hợi, Bính Tuất, địa vị tới Sứ Tuần duyệt Lưỡng Hồ (chỉ Hồ Bắc và Hồ Nam, Trung Quốc).

Bính Dần, Canh Dần, Canh Tuất, Ất Dậu.
Đồng Trị, năm thứ 4, tháng 12, ngày 19, giờ Dậu.
Mệnh Trần Điều Nguyên: Sinh ở sau Lập Xuân 6 giờ, khí hàn lạnh chưa hết, chuyên dụng Bính hỏa, tốt ở sinh giờ Ất Dậu, nhật nguyên không nhược vậy.

Tân Mão, Canh Dần, Canh Ngọ, Kỷ Mão.
Quang Tự năm thứ 17, tháng giêng, ngày 5, giờ Mão.
Mệnh Hàn Phục Củ: Hai Mão là không phải Nhận, Tân kim xuất can, hai Mão xung động Dậu cung, được Nhận hư thần, Bính Đinh chế Nhận làm dụng, vận hành Đinh Hợi, Bính Tuất, địa vị tới Chủ tịch tỉnh Sơn Đông, Dậu vận năm Đinh Sửu, mất luật gặp hình.


descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Nhị nguyệt Canh kim (Tháng 2, Mão, Kinh Trập)

(Tháng 2 trong Mão có Ất mộc nắm quyền, trong trụ tự nhiên có Ất, lại có Đinh hỏa, được giờ Canh Thìn, Canh nhất định thấu tình với Ất muội, kim có thế ám cường, cùng Thu kim là giống nhau)

Lý lẽ ngũ hành là Mẫu vượng Tử tướng, Dần cung Giáp mộc lâm quan, Bính hỏa trường sinh, Mão cung Ất mộc đế vượng, ám sinh Đinh hỏa, lại tới ở Dậu cung Tân kim, trong Tý có Quý thủy, trong Ngọ có Kỷ thổ. Lý lẽ rất tinh vi, tháng 2 Canh kim, lý giống tháng giêng, Xuân kim suy tuyệt, không thể không có Tỉ Ấn sinh phù, chi đến Thân Thìn, nếu bên trong chuyển vượng, hỉ dụng Đinh hỏa, nếu thấy Ất mộc xuất can, Ất tất thấu tình với Canh, ba tháng mùa Xuân mộc vượng, không có lấy lý tòng hóa, nhật chủ lưu luyến Tài tinh, trái lại là bệnh Tham hợp vong quan, nếu cách ngôi không hợp, hoặc tàng chi không thấu, tức vô cùng tệ hại, luận nạp giáp, Canh kim nạp ở Chấn, ở ngôi Mão, Canh tới Mão là ám cường, nhưng không phải Tỉ Ấn sinh phù, không đủ để dụng Tài Quan vậy.

Thấy Đinh ở can, lại thấy Giáp thấu dẫn Đinh, chi ở dưới lại thấy một Canh, chế Giáp bổ Giáp, phối hợp được trung hòa, khoa giáp là không nghi ngờ, hợp chỗ này không nghiệm, là do phong thổ mỏng vậy, như không thấy Canh tàng chi hợp, dù có Đinh Giáp lưỡng thấu, bất quá chỉ là người có tài năng một phương, mùa Xuân Đinh khí đúng nặng, không vượng không suy, cho nên dụng Giáp dẫn Đinh, lại dụng Canh bổ Giáp, Quan tinh chính là có khí, nếu Ất mộc tuy nhiều, đã lo hợp Canh để trợ cường, lại sợ thấp Ất hại Đinh, khó thành Đinh mẫu, cho nên có Đinh Giáp không có Canh là thường nhân mà thôi, Đinh hỏa Giáp Canh đều đủ, dù không xuất can, có thể định áo cơm no đủ, Đinh thấu Canh Giáp tàng thì tiến cử làm Giám thị không thiếu, không có Đinh dụng Bính, là gia phú, lợi ở dị đồ.

Trong Mão có Đinh hỏa ở, thấy Đinh xuất can, như tự Nguyệt lệnh thấu xuất ra vậy, Đinh hỏa không cách ly Giáp mộc, Giáp mộc không cách ly Canh kim, cả ba có dụng liền nhau, chi ở dưới thấy Canh, là nói trong Thân có Canh kim vậy, hợp Mão phá Thân dẫn Đinh, nhật nguyên lại vừa thông căn đắc lộc, cả hai đắc dụng, không có Thân hợp Mão, tuy có Đinh Giáp, không thể hiển lớn, thì do Canh kim hưu tù, không thể đảm nhận Tài Quan (như thấy Canh Thìn, chi ở dưới được Thiên Ấn sinh phù, cũng có thể chuyển vượng, thấy Tiết ở trên).

Sau tường thuật lý lẽ, ba tháng mùa Xuân Đinh hỏa, không vượng không suy, không có Giáp thì Đinh hỏa không có chỗ phụ trợ, không có Canh bổ Giáp, thì Đinh hỏa không linh hoạt, khí không viêm rõ, không thể gọi là Quan tinh có khí vậy, cho nên có Đinh Giáp không có Canh Tỉ là thường nhân mà thôi, canh kim được Đinh mà thấu, mới có thể lấy quý, không có Đinh thấy Bính, nhất phú mà thôi, hoặc trong phú có quý, xuất ra ở đường khác, Đinh hỏa được Giáp mà vượng, không có Giáp thấy Ất, dù nhiều cũng vô ích, thấp Ất không thể dẫn Đinh, hợp Canh trợ cường, thì Canh mất dụng dẫn Đinh, chỗ này tường thuật nhất định lý là cần dụng Đinh Giáp, không thể lấy Bính Ất mà thay mặt vậy.

(Hoặc một lúc có Giáp mộc, lại kỵ thấy trợ thân để phá Tài thần, không thấy Tỉ kiên, lấy Tòng Tài luận, là đại phú đại quý, thấy Tỉ là phú ốc bần nhân, Tòng Tài thì hỏa là Thê, thổ là Tử.)

Tháng 2 mộc vượng nắm lệnh, mùa kim khí suy tuyệt, thấy Giáp nhiều, không có Tỉ Kiếp Ấn thụ, thì lấy Tòng Tài luận, thấy Ất, là Phu tòng Thê hóa, cùng là Tòng cách, nếu thấy Tỉ Ấn, thì Mộc kiên kim khuyết, là Tài vượng thân suy, là phú ốc bần nhân, chỉ nói có thể là phú mà vợ quản lý tài sản, không thể tự có tài, nếu tự hữu thì thân nhược không thể gánh nặng, là thuyền nhẹ mà chở nặng, nhất định sẽ bị lật úp thuyền vậy, câu hỏa là Thê thổ là Tử, nghi ngờ có lầm chữ, Tòng cách lấy chỗ thần tòng làm dụng, thì đương nhiên Thủy là Thê, mộc là Tử.

(Dụng Đinh thì lấy Giáp là Thê, nhưng Giáp mộc hoặc có chịu Canh chế, tức là công danh có thể đủ, vợ chính khó giữ nỗi, không cho phép đều như nhau.)


Tháng 2 Canh kim, lấy dụng Đinh hỏa là chính, dụng Đinh thì mộc là Thê hỏa là Tử, được Canh kim có lợi ích là Giáp dẫn Đinh, phú quý không nghi ngờ, duy chỉ có Giáp bị Canh chế, Tài tinh gặp Kiếp đoạt, Thê cung không khỏi bị hình khắc, chỗ này xu thế khó khăn cả hai vậy.

Tóm lại, Canh kim ở tháng 2, chuyên dụng Đinh hỏa để ức chế cường, sau dụng Giáp mộc dẫn Đinh, lại cần dụng Canh bổ Giáp, bát tự như không có Đinh dụng Bính hỏa, phú quý đa số xuất ra ở thế miễn cưỡng, tức có phú quý, cũng là gian khổ mới có được.

Tổng kết đoạn văn ở trên, trừ hàn giải đống, cần dụng Bính hỏa, luyện Canh thành khí, cần dụng Đinh hỏa, tháng 2 khí dương hòa trời ấm áp, Bính hỏa khộng quan trọng, dù khiến cho phối hợp trung hòa, cũng là khác đường, không để xuất ở ở tự nhiên vậy.

Kim tử là sợ cái đầu bị bùn nhão, gặp lại Mậu Kỷ, như vào tượng bị áp chế, cần Giáp thấu là tốt.

Canh đến tháng Dần Mão, là kim ở đất tử tuyệt, tính nhu thể nhược, thấy một điểm Kỷ thổ, hoặc Thìn Sửu thấp thổ thì cát, tóm lại thổ bạc thì sinh có ích, thổ trọng thì bị chôn vùi mất ánh sáng, không được Giáp mộc khai thông cho thổ, thì không thể kim hiển dụng, chỗ này tháng 1, 2 giống nhau vậy. Lấy ở trên 4 câu sao chép lại.

Canh Thân, Kỷ Mão, Canh Dần, Đinh Sửu
Đinh thấu Giáp tàng, khó do Khoa giáp, nạp thóc để cầu danh, làm quan tri huyện, gia định cự phú, là người cũng khảng khái.

Canh Ngọ, Kỷ Mão, Canh Tý, Giáp Thân
Giáp thấu Đinh tàng, không lợi đường chính, hành Ngọ vận, Vũ chức hiển đạt.
Ghi chú: cả hai tạo đều có Kỷ Canh cùng thấu, Canh kim ám cường mà dụng Đinh hỏa, Giáp Canh đều đủ, dù không có Khoa giáp, cũng có đường khác hiển đạt, tạo ở trên Dần Mão tài vượng, lại là cự phú vậy.

Bính Thân, Tân Mão, Canh Thìn, Đinh Hợi
Quan tinh xuất can, trong Mão có Ất mộc, có Hợi trong có Giáp mộc dẫn, Giáp mộc lại được Thân trung Canh kim bổ tách, là đại quý, dụng Đinh hỏa, mộc là Thê hỏa là Tử, Thân Thìn hội thủy khắc Đinh, một con không thể thừa nhận.
Ghi chú: Đinh Hợi hỏa lâm tuyệt địa, số ứng một con, Thân Thìn hội cục khắc chế, cho nên nói không thể thừa nhận vậy.

Tân Sửu, Tân Mão, Canh Dần, Canh Thìn
Vũ cử, gia phú.
Ghi chú: Chi đủ Dần Mão Thìn, có thể biết là giàu có sung túc, Tỉ Kiếp lộ can đầu mà không có Đinh hỏa, cho nên quý ít vậy, nhưng hai can không tạp, khí thế tự thanh.

Tân Dậu, Tân Mão, Canh Dần, Đinh Hợi
Vũ trạng nguyên.
Ghi chú: Tạo này cùng tạo ở trên giống nhau, thấy Đinh hỏa xuất can, tức lấy quý, lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Ất Hợi, Kỷ Mão, Canh Thìn, Đinh Sửu
Quang Tự năm thứ nhất, tháng 2, ngày 12, giờ Sửu.
Mệnh Trương Tác Lâm: Canh kim tọa Thìn, Kỷ thổ xuất can, kim thế ám cường, chuyên dụng Đinh hỏa, Canh cung Giáp mộc dẫn Đinh, Ất mộc cách ngôi không hợp, Thai Nguyên Canh Ngọ, Canh kim bổ Giáp, Ngọ là Đinh lộc, Sửu Mão Thìn kẹp Dần, Hợi ám hợp, Tài đủ thành phương, chỗ này đều là không thấy hình, cho nên lấy vũ chức hiển đạt, phú quý đều rất đạt, địa vị tới Đại Nguyên soái. Tuất vận năm Mậu Thìn, ông hoàng đang chuẩn bị đóng quân bị đạn nổ làm mất mạng (năm Hợi thấy Thìn là Tự ải Sát, không phải ra lệnh cuối cùng).

*Trương Tác Lâm 19/3/1875-4/6/1928 là một quân phiệt của Mãn Châu từ 1916 đến 1928, giữ chức Đại Nguyên soái Lục Hải quân Trung Hoa Dân quốc từ 1927 đến 1928, lãnh đạo trên thực tế của Chính phủ Bắc Dương.

Kỷ Mão, Đinh Mão, Canh Tuất, Kỷ Mão
Quang Tự năm thứ 5, tháng 3, ngày 6, giờ Mão.
Mệnh Trương Thụ Nguyên: Cũng dụng Đinh hỏa, Mão nhiều không thể dẫn Đinh, hỉ kỳ không có thủy, không tổn thương Đinh, hỉ Tỉ động vận.

Quý Mão, Ất Mão, Canh Thìn, Mậu Dần
Đạo Quang năm thứ 23, tháng 2, ngày 7, giờ Dần.
Mệnh Trương Tích Loan: Tạo này sợ là giờ Đinh Sửu, can năm Quý thủy, được Ất mộc dẫn hóa, không tổn thương Đinh hỏa, địa vị tới

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Tam nguyệt Canh kim (Tháng 3, Thìn, Thanh Minh)

(Tháng 3 thổ nắm lệnh, không sợ qua mùa, chỉ sợ vùi kim, trước dụng Giáp khai thông thổ, sau dụng Đinh hỏa nung luyện kim thành khí, Canh kim bổ Giáp, chỗ này là không nhất định phải dùng)
Sau tiết Thanh minh 10 ngày, là do Ất mộc nắm lệnh, phép xem giống tháng 2, sau 10 ngày, Mậu thổ nắm lệnh, Bính hỏa dần dần mạnh lên, không sợ hàn sinh. Nguyệt lệnh thổ vượng kim tướng, cho nên kim không sợ nhược, nhưng sợ Mậu thổ xuất can, thì có lo chôn vùi kim, cho nên trước dụng Giáp mộc khai thông có ích, sau dụng Đinh hỏa nung luyện.

Nguyệt lệnh Ấn vượng, không cần có Tỉ Kiếp phù trợ vậy, như được Đinh Giáp lưỡng thấu, không thấy Tỉ Kiếp phá Giáp, khoa giáp có chắc chắn, nhưng cần vận tiến hành. Giáp thấu Đinh tàng, được tiến cử Giám sát sinh viên, Giáp tàng Đinh thấu, khác đường hiển chức, Đinh Giáp đều tàng, không chịu Canh chế, trong phú lấy quý, có thể khời thêm đao bút, có Giáp không có Đinh là thường nhân, có Đinh không có Giáp, là nhà nho, Đinh Giáp đều không có, là người thấp hèn.

Tường thuật vốn là dụng Giáp, phàm cách cục thượng đẳng, thì nguyên cục có nhược điểm, không có Tuế Vận bổ khuyết, không thể phát đạt, cho nên cần vận tốt tiến hành hỗ trợ, Canh kim sinh tháng 3, tuy nguyệt lệnh là Thiên Ấn tương sinh, để cứu kỳ vô khí. Thể Dụng đều thất thời thất địa, nhất định cần vận trình để trợ giúp, chỗ này là do cách cục có cao thấp vậy, nếu Đinh Giáp đều không có mà lấy khác thủ dụng thần, càng không phải mệnh tạo tốt.

(Hoặc có Giáp không có Đinh, thấy một Bính hỏa, khời đầu từ binh nghiệp hàng ngũ phẩm, lại không có Nhâm Quý vây khốn Bính, vũ chức hiển tốt đẹp)
Can Ngũ dương tương chế, Giáp mộc hỉ Canh, Bính hỏa hỉ Nhâm, Mậu thổ hỉ Giáp, Nhâm thủy hỉ Mậu, đều lấy dương chế dương có lực là quý, đơn độc có Canh kim hỉ Đinh hỏa nung luyện, Bính hỏa không có lực chế Canh, chỗ này là tính chất đặc thù vậy. Tháng 3 Canh kim, thấy Giáp Đinh là khoa giáp, thấy Giáp Bính là vũ chức, nhưng không luận dụng Bính dụng Đinh, đều không nên thấy Nhâm Quý phá cách.

(Hoặc chi có cục Mậu thổ, không có mộc, là bần tiện tăng đạo, thấy Ất, là kẻ gian tà tiểu nhân)
Tháng 3 thổ vượng nắm lệnh, chi tụ tứ khố, thấy thổ thấu can, là sợ vị chôn kim, nhất định cần lấy Giáp giải cứu, ý là Ất có khai thông thổ mà không có lực, là kẻ gian tà tiểu nhân.

Tóm lại, tháng 3 Canh kim, thổ vượng kim ngu, không thể thiếu Đinh, Mậu nhiều dụng Giáp, không có Giáp không thể tự lập, không có Đinh không thể thành danh, hai mà khuyết một, đều thuộc người thường nhân, sau xem Bính hỏa, không có Đinh mà chỉ dụng Bính, Nhâm Quý đều là Bệnh thần, Canh kim không có hỏa, không có Nhâm thì bần, thân nhược Tài nhiều, phú quý không bền.

Tổng kết đoạn văn trên, tháng 3 Canh kim là Mẫu vượng Tử tướng, không phải là chân vượng vậy, thất thời thất lệnh, cho nên là Ngoan kim, vượng thổ cần Giáp. Ngoan kim cần Đinh, có Giáp khai thông thổ, kim khí mới hiển, cho nên chủ lập nghiệp, có Đinh nung kim, là đại khí phong phú, cho nên chủ thành danh, Đinh Giáp nhất định cần cùng dụng, không thể khuyết một, thổ trọng lấy Giáp làm chủ, thổ nhẹ lấy Đinh làm chủ, không có Đinh dụng Bính, không được chính thì dùng thứ vậy, Canh kim không có hỏa, nhất định chủ bần nhân, là do lấy kim đầy mà ngu vậy, ba tháng mùa Xuân mộc vượng mùa nắm lệnh, như mộc thành phương cục, Giáp Ất cùng thấu, là Tài đa thân nhược, tuy có phú quý, không thể hưởng lâu dài vậy.

(Lại có chi thành hỏa cục, Quý xuất can chế, là phú quý, có Bính Đinh xuất can, thấy Nhâm xuất chế, mới tốt, không có thủy chế hỏa, là tàn tật phế nhân, hoặc hỏa cục không có Tỉ Kiếp, lấy Tòng Sát luận, phú quý không phải ít, nhưng đa số chết yểu mà thôi)

Thủy ở trên Canh kim không thể không có hỏa, Nhâm Quý mà nói đều là Bệnh thần, nếu chi thành hỏa cục, hỏa vượng nung chảy kim, không thấy Quý thủy xuất chế thì không thể, nếu Bính Đinh xuất can, càng cần Nhâm thủy xuất can chế thì mơí tốt, nhưng thấy Quý thủy, do sợ lực yếu vậy, không có thủy chế hỏa, kim bị hỏa gây tổn thương, là mệnh tàn tật chết yểu, hỏa cục không có Tỉ Kiếp, phú quý không phải ít, nhưng cần phải đúng Tòng thì mới có thể, Nguyệt lệnh Thìn thổ, là cách thấp nhuận, tất nhiên sinh kim, khó được cách chân tòng, cho nên đa số là chết yểu vậy.

Dụng Giáp thì Thủy là Thê, mộc là Tử, dụng hỏa thì mộc là Thê, hỏa là Tử.

Tháng 3 Canh kim, thổ vượng dụng Giáp, kim vượng dụng Bính Đinh, không có phân biệt chủng loại nào hết.

Canh Tý, Canh Thìn, Canh Thân, Nhâm Ngọ
Chi thành thủy cục, can thấu Tỉ Kiếp, tên gọi là Tỉnh lan nghĩa cách, làm quan Thái Sư, phàm thủy cục cần lấy chỗ này để tham khảo.
Ghi chú: Hỉ kỵ thiên nói: Ngày Canh hoàn toàn gặp Nhuận hạ, kỵ phương Nhâm Quý Tị Ngọ, Nhâm Quý là Bắc phương vậy, Tị Ngọ là Nam phương vậy, chỉ có vận trình mà nói, nguyên mệnh cũng không theo thấy Nhâm Quý Tị Ngọ là kỵ vậy, lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Quý Mão, Bính Thìn, Canh Thân, Tân Tị
Đạo Quang năm thứ 23, tháng 3, ngày 17, giờ Tị.
Mệnh Khương Quế Đề: Bính hỏa xuất can, đắc lộc ở Tị, Quý thủy tọa Mão, không làm khốn bính, là vũ chức cực quý, đại vị Tuần Duyệt sứ.

Bính Thìn, Nhâm Thìn, Canh Thìn, Nhâm Ngọ.
Hàm Phong năm thứ 6, tháng 3, ngày 23, giờ Ngọ.
Mệnh vua nhà Thanh Mục Tông (niên hiệu vua Mục Tông, thời Thanh, Trung Quốc, 1862-1874) ( Đồng Trị ), Giáp Ngọ vận phối năm Giáp, con trai của Mặt trời và Thái tuế mất.

Tân Dậu, Nhâm Thìn, Canh Tý, Giáp Thân
Hàm Phong năm thứ 11, tháng 3, ngày 20, giờ Thân.
Mệnh Đoan Phương: người Mãn, là Tỉnh lan nghĩa cách, địa vị chỉ huy, năm Tân Hợi chết ở trong loạn quân, thọ 51 tuổi.

Mậu Dần, Bính Thìn, Canh Thân, Tân Tị
Quang Tự năm thứ 4, tháng 3, ngày 10, giờ Tị.
Mệnh Liêu Trọng Khải: Canh sớm chuyên lộc, lấy Dần cung Giáp mộc sinh Bính, Tài tư nhược Sát cách, Thân cung có Lộc Mã đồng hương, quý hàng cực phẩm, ứng lấy vũ chức hiển, Bính Tân hợp xa, không đủ để trói bán dụng thần, lại hành Tân vận, là tranh hợp Bính Sát, đột nhiên gặp ám sát.

Canh Thìn, Canh Thìn, Canh Thìn, Đinh Hợi
Quang Tự năm thứ 6, tháng 3, ngày 13, giờ Hợi.
Mệnh Canh Kế Nghiêu: Đinh hỏa xuất can, Hợi cung tàng Giáp, địa vị là Vân Nam Đô Đốc, hoặc nói sinh: Quý Mùi, Canh Thân, Canh Dần, Nhâm Ngọ. Ai đúng không biết?

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Tứ Nguyệt Canh kim (Tháng 4, Tỵ, Lập Hạ)

(Canh kim ở tháng 4, trường sinh ở Tị, Tị tuy có Bính, bên trong có Mậu thổ, Bính không nấu chảy kim, cho nên không sợ hỏa viêm, nhưng mà Bính không thể khinh dụng, trước tiên cần dùng Nhâm thủy, mới được trung hòa. Thư viết: Bầy kim sinh mùa Hạ, vũ chức là diệu dụng, thứ lấy Mậu thổ, Bính hỏa làm phù tá, cả 3 đều thấu mạnh là phú quý vô song, hoặc thấu 1,2, cũng là giám sát học trò.)

Canh kim Trường sinh ở Tị, gặp mùa Bính hỏa đang vượng, khí Canh kim tự nhược, tuy Mậu thổ đắc Lộc, Bính không có nấu chảy kim, song Mậu thổ cũng không thể sinh kim. Thư nói: Quần kim sinh mùa Hạ, nguyên vũ (vũ lực cơ bản) là tuyệt diệu; nguyên vũ là Bắc phương Nhâm Quý thủy vậy, được thủy chế hỏa nhuận thổ, công Mậu phản sinh. Cho nên Canh kim sinh 3 tháng mùa Hạ, không thể cách ly thủy làm dụng vậy. Không có thủy chỉ có thể lấy Mậu thổ Hối hỏa Tồn kim (làm mờ hỏa, lưu lại kim), chính là không được chính thì lấy thứ mà dùng. Như tứ trụ kim thủy quá vượng, trái lại dụng nguyệt lệnh hỏa đang vượng, lại là cách cục bị biến hóa vậy.

(Hoặc đồng nhất Bính hỏa, gọi là Giả Sát vi quyền; không thấy Nhâm thủy chế hỏa, người này thanh cao, nhân nghĩa giả tạo, vứt cái cũ đón cái mới, hình thê khắc tử; nếu được Nhâm thủy xuất ra can chế, chủ đại phú quý; Nhâm tàng chế hỏa, thì tiểu phú quý, song danh thì có mà không có thực.)
Canh kim nhiều gặp Bính hỏa chế xuất can, là thân vượng Sát mạnh, là Giả Sát vi quyền, cần dụng Nhâm thủy chế Sát, bệnh nặng mà được thuốc chửa, chủ đại phú quý. Nếu không thì Hỏa viêm Thổ táo, Canh kim tuy nhiều mà không vượng. Tuy có Mậu thổ dẫn hóa, không đến nỗi kim bị hỏa thương hại, cũng nhất định Hình thê Khắc tử, ( giống như Tân kim không bần cũng chết yểu). Nhâm thủy tàng ở chi, được vận dẫn xuất, chủ tiểu phú quý, hữu danh vô thực, Ý là có chế Sát mà lực thì không có vậy.

(Hoặc chi Mậu kim cục, biến nhược thành cường, dụng Bính không có lực, cần có Đinh chế là quý, Đinh thấu không gặp Nhâm thủy, là mệnh phú quý, không có Đinh là người vô dụng, hoặc Đinh xuất ra 3, 4, do chế thái quá mà đến già vẫn còn bôn ba.)
Canh kim tuy là Trường sinh ở Tị, khí cực nhược, không thấy Dậu Sửu hội cục, tức chuyển nhược là cường, đặc biệt gặp chữ Sửu là tuyệt diệu, Sửu là thấp thổ sinh kim, là Diệu dụng Nguyên vũ; cách này cùng Giáp mộc sinh ở Hợi, thấy Mão hội cục thì cũng đồng luận (xem Tiết Bính hỏa thập nguyệt). Canh kim chuyển cường, đang dụng Đinh hỏa là lấy quý, kỵ Nhâm Quý tổn thương Đinh, Bính cũng khả dụng, duy không phải như Đinh hỏa là thủ quý (xem Tam nguyệt ở trên). Đinh xuất ra 3,4, là Quan nhiều thành Sát, lại cần có thủy để chế lấy cứu mệnh vậy.

Tổng luận, Tháng 4 Canh kim, mặc dù Nhâm Bính Mậu đều không có, cũng không nên trói buộc, nhưng ở đâu mà xem có Bệnh nhiều, thì dụng Dược ở đó vậy. Thê tử dụng giống như trước, Canh sinh tháng 4, lấy thủy là nhất định rất cần, Bính Mậu là thần đương nắm lệnh, cho nên thủ lấy dụng thủy là trước tiên, không có Nhâm dụng Quý, ý là tương đồng. Ứng bệnh cùng dược, chung quy không thể không có thủy, thê tử dựa vào dụng thần mà định, giống như phép xem ở trước.

Thanh kiếm kích thích thành công, nhập hỏa hương trái lại là hại, kim phùng hỏa là tổn hại, lại tiếp tục gặp hỏa là tổn thương, Canh Tân hỏa vượng phạ Nam phương (Canh Tân hỏa vượng sợ Nam phương), gặp đất của Thìn Tị, lại cũng là đoạn tuyệt vinh quang.

Tiết này nghĩa rất mờ mịt, bản sao bị mất, sau khi đối chiếu theo bản sao bổ túc Cùng Thông Bảo Giám, kim đến Thân Dậu Tị Sửu, được Đinh hỏa nung luyện, tên là Kiếm kích thì thành công, nhập hỏa hương trái lại là hại, vận hành đất của bản địa vậy. Kim gặp hỏa là tổn hại, là Kim sinh ba tháng mùa Hạ vậy. Lại tiếp tục gặp hỏa tất nhiên là bị thương, cho nên vận hỉ Tây Bắc, không có lợi ở Nam phương.

Xem tổng luận, Canh Tân thấy hỏa vượng, tuy sợ Nam phương, song gặp vận Thìn Tị, lại là đoạn tuyệt vinh quang; không biết Thìn là thấp thổ sinh kim, Tị là Canh kim ở sinh địa, Thìn Tị mạnh mẽ ở cung Tốn, Thìn hợp Dậu, Tị hợp Dậu, ám tàng khí kim, nếu nguyên mệnh có Dậu, gặp Thìn Tị hội hợp, trái lại là lấy vượng luận, là sợ ngoại lệ Nam phương vậy.

Nhâm Dần, Ất Tị, Canh Tuất, Bính Tuất
Hình khắc, là người khách phiêu đãng ly hương bên ngoài.
Ghi chú: Tạo này Nhâm thủy vô căn, khí tiết ở Dần, không thể chế Bính, hỏa thổ vô tình, làm khách bôn ba bên ngoài vậy.

Quý Sửu, Đinh Tị, Canh Tý, Đinh Hợi
Tú tài, đại phú, có 5 con đều quý.
Ghi chú: Tị Sửu hội cục, Canh kim chuyển vượng, có thể dụng Đinh hỏa, nhưng Quan nặng là không quý, lại thấy Quý tổn thương, nên phú mà không quý, thủy tới Hợi đất lâm quan, là có 5 con, lấy ở trên làm chìa khóa cơ bản.

Giáp Thân, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Mậu Dần
Đạo Quang năm thứ 4, tháng 5, ngày 8, giờ Dần.
Mệnh Tiễn Ứng Phổ: Dần Ngọ hội cục, chuyên dụng Thân cung Nhâm thủy, vận hành Tây Bắc, đề bạt tiến cử làm Quân cơ.

Ất Sửu, Tân Tị, Canh Tý, Bính Tý
Đồng Trị năm thứ 4, tháng 5, ngày 6, giờ Tý.
Mệnh Tề Diệu San: Quần kim sinh mùa Hạ, là diệu dụng Nguyên vũ, chi thành kim cục, dụng Tị cung hỏa đang vượng, phú quý không nghi ngờ, nhưng dụng Bính hỏa Thất Sát là Vũ chức thì tốt, dụng Đinh hỏa Quan tinh là Văn chức, địa vị là Tỉnh trưởng, nên là giờ Đinh Sửu vậy.

Kỷ Mão, Kỷ Tị, Canh Thân, Tân Tị
Quang Tự năm thứ 5, tháng 4, ngày 17, giờ Tị.
Mệnh Lý Căn Nguyên: Chuyên dụng Bính hỏa, hỉ Thân cung có Nhâm thủy chế, tiếc là Nhâm Bính đều tàng, chi lại gặp tam hình, càng nắm binh quyền, lại là Trưởng Nông Thương, nổi lên không bình thường.

Nhâm Ngọ, Ất Tị, Canh Tuất, Tân Tị
Quang Tự năm thứ 8, tháng 3, ngày 24, giờ Tị.
Mệnh Dương Thụ Trang: Chi thành hỏa cục, hai Tị tàng Bính, hỉ Nhâm thủy xuất can chế, Thai Nguyên là Bính Thân, Nhâm thủy có căn, là Giả Sát vi quyền, địa vị là Tổng trưởng Hải quân.

Nhâm Ngọ, Ất Tị, Canh Tuất, Nhâm Ngọ
Quang Tự năm thứ 8, tháng 3, ngày 24, giờ Ngọ.
Mệnh Tằng Tông Giám: Cùng tạo họ Dương chỉ hơi khác một giờ, dụng Ngọ trong có Đinh hỏa, là đều là văn chức mà không phải vũ chức, năm và giờ hai Ngọ, hội Tuất thành hỏa cục, lại gặp mùa hỏa vượng, vẫn không thể không dụng thủy chế, đại vị Tổng trưởng.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Ngũ nguyệt Canh kim (Tháng 5, Ngọ, Mang Chủng)

(Tháng 5, Đinh vượng nóng hừng hực, lại gặp Bại địa, chuyên dùng Nhâm thủy, Quý là thứ yếu)

Tháng năm, Đinh hỏa nắm lệnh, Canh kim bị nung chế quá mức, không thể cách ly Nhâm Quý để dụng, dù tứ trụ không có thủy, vẫn cần vận hành đến Bắc địa, cho nên nói là chuyên dụng Nhâm Quý, chỗ gọi là Diệu dụng nguyên vũ (chỗ dụng tuyệt vời nhất là võ lực) vậy, Mộc dục là bại địa là.

Nhâm thấu Quý tàng, chi thấy Canh Tân, cầm phú quý như trở bàn tay, thiết kỵ Mậu Kỷ xuất can chế thủy, liền làm thường nhân, hoặc Mậu tàng chi, lại có mộc chế, cũng không mất nho lâm tú sĩ, hoặc kim thấu thiên can, Nhâm tàng trong chi, lại có chi kim sinh trợ, định chủ được tuyển dụng đề bạt, hoặc Nhâm tàng Mậu xuất, mộc không thể chế, thì là thường nhân, hoặc Quý xuất thấy kim, cũng tốt, nhưng phú quý đều ít, đường lui là lợi.

Tháng 5, kim gặp bại địa, thủy cũng gặp tuyệt địa, đơn độc thấy một, hai điểm Nhâm Quý, không đủ để phá hỏa, trái lại là vượng hỏa táo thổ chỗ bị nấu khô, cho nên có Nhâm xuất can, lại cần Quý thủy trợ giúp, chi thấy Canh Tân kim để sinh, để phương thủy có gốc, phú quý là nắm như trở bàn tay, kim thấu Nhâm tàng, lý lẽ giống nhau, dụng Nhâm kỵ Mậu Kỷ xuất can, lại xem mộc có thể chế hay không thể chế, là cách cục cao thấp mà phân biệt, Quý thủy lực nhược, cho nên phú quý đều ít, cho nên nói là chỉ có đường lui, chính là lấy Quý có chỗ chưa đủ vậy.

(Hoặc chi thành hỏa cục, thiếu thủy, là bôn ba vô định, thấy Nhâm Quý xuất can chế hỏa, tuy không khoa giáp, cũng chủ có ân huệ, phong tước. Mậu Kỷ xuất can, lại làm thường nhân. Chi thành hỏa cục, không có thủy lại cần thấu Mậu Kỷ, để bổ túc cho Canh tiết hỏa, để mà khỏi bị chết yểu, cô bần, như thổ cũng không thấu, là người hạ tiện, phế nhân.)

Chi thành hỏa cục, là kim bị nung luyện thái quá, nhất định cần có thủy để cứu giúp, kỵ thấy Mậu Kỷ, cùng đoạn văn trên là một lý lẽ, không có thủy thì dụng thổ để tiết khí hỏa, là Quan Ấn tương sinh, để khỏi bị hỏa gây tổn thương. Vẫn lấy vận hành Bắc địa là tốt (Ngọ cung Đinh Kỷ đắc lộc, Quan Ấn thừa vượng, vốn có thể thủ quý, nhưng do hỉ dụng trái ngược nhau, cho nên phú mà quý, xem ở dưới tạo Kỷ Mùi), nếu chi thấy Tuất Mùi là táo thổ, Kỷ thổ lại không xuất can, cũng không có thể Tòng Sát, lại không có thủy để cứu giúp, là mệnh cầm lấy hạ tiện, tàn phế vậy.

(Hoặc chỉ có mộc hỏa, không có Thương Ấn Tỉ Kiếp, lấy Tòng Sát luận, phú quý không phải ít)

Tháng 5, Ngọ cung tự có Kỷ thổ, như thấy Thực Thần, Thương Quan (Nhâm Quý) thì thành công phản sinh, cho nên ngoại trừ Tỉ Ấn (Tân, Kỷ), lại cần không có Thực Thương, phương có thể lấy Tòng Sát luận. Canh kim ở tháng 5, Nguyệt lệnh Quan Ấn (Đinh, Kỷ) cùng vượng, Ngọ cung Kỷ thổ, tuy không thể sinh Canh kim, nhưng ý là cuối cùng có tương sinh, phù hợp không thể xem nhẹ mà lấy tòng luận vậy.

(Nói tóm lại, Canh kim tháng 5 không có thủy, nhất định không phải thượng cách)

Tổng kết đoạn văn ở trên, cho dù không có thủy, cũng nhất định vận hành nơi Bắc địa, cần thủy mà phát, chỗ gọi Diệu dụng nguyên vũ vậy.

Kỷ Mùi, Canh Ngọ, Canh Tuất, Nhâm Ngọ
Thiếu niên bị hình khốn, con muộn vợ trễ, về già đại phú.
Ghi chú: Tạo này, Ấn Tỉ Thực thần đều xuất can, quyết định không thể lấy tòng luận, bản thân Tòng Nhi không thành tòng, chỗ gọi là Loại tượng thị liễu (tượng hoàn toàn không thành)

Như tạo của Ngu Hòa Đức: Đinh Mão, Bính Ngọ, Canh Ngọ, Kỷ Mão
Chỉ có mộc hỏa, lại đúng là tòng tượng, nhưng mà do Kỷ thổ thấu vậy, đắc lộc ở Ngọ, nên không thể tòng, đắc ý ở Tân Sửu, Canh Tý vận, tạo này trước bần sau phú, e rằng cũng phú ở Tân Sửu, Canh Tý vận. Canh kim là dương can, không dễ nói tòng, lại thêm Thai Nguyên ở Dậu, là Dương Nhận ám tàng, cần nhất là mang thủy, thổ, kim vận.

Tổng luận nói: Vận cần Tây Bắc, không lợi Nam phương là vậy, lại theo Tam Mệnh Thông Hội nói: Canh kim tọa ngọ hựu vi đề, đinh kỷ tề minh lưỡng khả nghi, kiền chi vô bính lai hỗn tạp, thủy tuyệt kiên đa tác phú thôi (Canh kim tọa Ngọ lại là tháng, Đinh Kỷ cùng rõ cả hai được, can chi không Bính tới hỗn tạp, thủy tuyệt dùng quá lấy phú suy).

Chú thích nói : [Canh ngọ nhật sinh vu ngũ nguyệt thấu đinh kỷ, quan ấn câu minh, lợi danh phát đạt, nhược ngọ đa, nhâm ngọ thì diệc cát, như ngộ bính sát bất lợi, nhược tòng sát cách, bất nghi thủy chế chi ] (Ngày Canh Ngọ sinh ở tháng 5 thấu Đinh Kỷ, là Quan Ấn đều rõ ràng, lợi danh phát đạt, nếu Ngọ nhiều, như Nhâm Ngọ thì cũng cát, như gặp Bính Sát thì không lợi, nếu Tòng Sát cách, thì không nên có thủy chế);

Lại có một tạo: Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Canh Ngọ, Đinh Sửu
Trụ thấy hai Sửu, kim thủy ám tàng có thể dụng, không thể tòng Sát, càng lộ rõ, đặc biệt loại mệnh tạo này, thiếu niên gặp nhiều khốn khổ. Bát pháp quan kiện nói: Loại hóa khí mà không thành cục, loại Ấn thụ mà không thành Ấn, lực phần đa chỉ dựa vào người khác, mệnh nhập vào nhà làm con thừa tự (con nuôi), cho dù tuổi nhỏ không phải cô khổ, cũng nhất định nhận lấy phúc ấm của người khác (sao lục để cung cấp mà tham khảo thêm).

Canh Thân, Nhâm Ngọ, Canh Dần, Nhâm Ngọ
Lưỡng can không tạp, đứng đầu bảng là Tri Phủ.
Ghi chú: Lưỡng can không tạp, là thủ thanh vậy, chuyên dụng Canh Nhâm, để làm chìa khóa căn bản.

Nhâm Thân, Bính Ngọ, Canh Ngọ, Giáp Thân
Gia Khánh (niên hiệu của vua Nhân Tông thời nhà Thanh, Trung Quốc, 1796-1820) năm thứ 17, tháng tư, ngày 28, giờ Thân.
Mệnh Hà Quế Thanh, trụ năm và giờ có hai Thân, Canh kim đắc lộc, Bính hỏa Sát vượng, chuyên thủ Thực thần chế Sát làm dụng, xuất thân Hàn Lâm (văn thư), làm quan Lưỡng Giang Tổng đốc (đầu đời Thanh chỉ hai tỉnh Giang nam và Giang Tây, sau đời Khang Hi, Giang Nam phân thành hai tỉnh GiangTô và An Huy. Nay cả ba tỉnh vẫn gọi là Lưỡng Giang, Trung Quốc), Hồng Dương đang loạn, làm thất thủ Nam kinh mà bị tử hình.

Tân Dậu, Giáp Ngọ, Canh Tuất, Canh Thìn
Hàm Phong (niên hiệu của vua Văn Tông thời Thanh ở Trung Quốc, 1851-1861) năm thứ 11, tháng năm, ngày 23, giờ Thìn.
Mệnh Từ Thiệu Trinh, Thìn Tuất là Khôi Cương cùng gặp, năm gặp Tân Dậu, là Dương Nhận, Ngọ cung Đinh hỏa đang vượng, là Quan Nhận cách, vận lợi Tây Bắc.

Đinh Mão, Bính Ngọ, Canh Ngọ, Kỷ Mão
Đồng Trị năm thứ 6, tháng năm, ngày 18, giờ Mão.
Mệnh Ngu Hòa Đức, chuyên dụng Kỷ thổ, vận lợi Tây Bắc, xem ở trên tạo Kỷ Mùi.

Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Canh Dần, Canh Thìn.
Quang Tự năm thứ 8, tháng năm, ngày 5, giờ Thìn.
Mệnh Trương Tự Trung, giờ gặp Canh Thìn, Nhật nguyên không nhược, Dần Ngọ hội cục, chuyên thủ Nhâm chế làm dụng.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Lục nguyệt Canh kim (Tháng 6, Mùi, Tiểu Thử)

(Tháng 6 mùa hạ sinh hàn lạnh, Kim ngoan quá cực điểm, trước dụng hỏa, sau dụng Giáp mộc)
Tháng 6 Canh kim, ở trước tiết Đại Thử, phép xem giống tháng 5, sau tiết Đại Thử, là kim thủy tiến khí.

Tứ trụ thấy thủy nhiều, gọi là Tam phục sinh hàn, thổ ở 3 tháng mùa Hạ, được vượng hỏa tương sinh, cho nên Thìn Tuất Sửu Mùi thổ ở các tháng Tứ Quý, lấy tháng Mùi là vượng nhất (xem ở Tổng luận thổ vượng kim ngoan), cho nên trước dụng Đinh hỏa, sau dụng Giáp mộc. Thân vượng cho nên hỉ Tài Quan, thân nhược hỉ Ấn, cũng lấy Giáp mộc khai thông thổ, lấy hiển dụng Canh kim vậy.

Đinh Giáp lưỡng thấu, khoa giáp thanh hiển, kỵ thấy Quý thủy làm tổn thương Đinh, có Giáp không có Đinh, là thường nhân, có Đinh không có Giáp, có tài năng làm Tú tài, Đinh Giáp hoàn toàn không có, là hạ tiện, cái tháng Mùi tuy có Đinh hỏa, không xuất ra thì như không có, hoặc không có Đinh thì không bị thủy làm hại, là phương mua bán, y lộc sung túc, trong chi thấy thủy, là kẻ sĩ cầm roi (thầy giáo).

Tháng Mùi hỏa hết suy, tuy có tượng rất nóng, thực ra là thế suy sức yếu, không phải Đinh hỏa xuất can, có Giáp mộc dẫn Đinh, không thể nung luyện khí Canh, cho nên nhất định lấy Đinh Giáp cùng thấu là quý. Giáp mộc tới tháng Mùi là Mộ địa, khí cùng suy dừng lại, cho nên có Tài không có Quan, là phường thấp hèn mưu lợi, có Quan không có Tài, là kẻ sĩ nho tú có tài năng, đều không phải là thượng cách. Sau là ý chú thích không có Đinh, trong Mùi tự có Đinh hỏa, sao lại nói không có rõ ư?

Tháng Mùi thì Kỷ thổ đang vượng, Đinh hỏa không thấu, thì luận thổ không luận Đinh, khí Đinh hỏa tiết ở vượng thổ, tuy có mà như không, nhưng cũng không phải hoàn toàn là nơi vô dụng, duy có Tài Quan đều là suy kiệt, chứng kiến là chấp thuận, chẳng qua là trước lộc đủ khí, không đủ thì lấy quý vậy, Đinh hỏa không luận tàng hay thấu, đều là chỗ kỵ là Quý gây tổn thương, chỗ này dụng thần không thể tổn thương là thông lệ vậy.

(Hoặc chi thành thổ cục, trước dụng Giáp sau dụng Đinh, Giáp thấu thì văn chương hiển đạt, phú mà còn quý).

Ở trên nói dụng Đinh, Giáp mộc là phụ, chỗ này nói dụng Giáp, Đinh hỏa là phụ, chi thành thổ cục, cần có Giáp mộc khai thông thổ, Canh kim mới hiển, cho nên lấy Giáp mộc làm dụng, Đinh hỏa là phụ tá, Giáp mộc cũng nhất định xuất ra can, mới có thể được dùng khai thông thổ.

(Hoặc trụ thấy nhiều kim, có 2 Đinh xuất ra chế, khác đường hiển đạt phi thường; 1 Đinh xuất ra chế, thì dựa vào đao bút (văn chương).)

Nói trọng dụng Đinh, Sách nói: Trọng Quan không quý, nhưng không thể đồng loạt mà luận, tháng 6 Canh tiến khí, trụ thấy Tỉ kiên, không được 2 Đinh xuất ra chế, không thể lấy quý, dù không là chính đường, cũng có thể hiển đạt, 1 Đinh lực yếu, đao bút dương danh, cũng là con dường khác vậy.

Tóm lại, tháng 6 Canh kim, chuyên dụng Đinh hỏa, Giáp mộc là phụ tá.

Bính Thìn, Ất Mùi, Canh Thân, Quý Mùi
Dụng Mùi trong có 2 Đinh, là lập nghiệp quân dịch, thiếu niên phát đạt không thể nói.

Bính Thìn, Ất Mùi, Canh Thân, Đinh Hợi
Đinh thấu Giáp tàng, thiếu niên đắc chí, nhất bảng, cự phú, ít huynh đệ.
Ghi chú: Cả hai tạo ở trên, chỉ khác một giờ, giờ Đinh Hợi, Đinh thấu Giáp tàng, cho nên có cất lên thi Hương là quý, giờ Quý Mùi thì chuyên dụng Mùi trong có 2 Đinh, cho nên chỉ là y lộc sung túc mà không quý vậy.

Bính Ngọ, Ất Mùi, Canh Dần, Nhâm Ngọ
Nhâm thấu chế hỏa, là Huyện lệnh, rất nhiều tài năng.
Ghi chú: Tạo này có Nhâm thủy chế Sát là dụng, thân nhược hỉ vận kim thủy.

Tân Hợi, Ất Mùi, Canh Tý, Kỷ Mão
Tú tài, giám sát thu thuế, làm quan cai trị một Châu (đơn vị hành chính thời xưa, ngày xưa nhân thấy có núi cao sông dài mới chia đất ra từng khu lấy núi sông làm mốc nên gọi là Châu.).
Ghi chú; Tạo này Giáp tàng Hợi cung, Đinh hỏa không thấu, lại là chỗ thủy gây tổn thương, may mắn có Kỷ thổ xuất can, chế Quý, Giáp mộc phá Mùi xuất Đinh, là tạp chức tiểu quan, không giống thương nhân, phân biết là khó nhất.

Quý Tị, Kỷ Mùi, Canh Tý, Giáp Thân
Chỗ này là Thương quan cách, chế Sát thái quá, vào mộc hỏa vận, Tài vượng sinh Sát, là Cử nhân.
Ghi chú: Tý Thân hội cục mà thấu Quý thủy, là Thương quan cách vậy, trong Mùi có Đinh hỏa, áp chế ở dưới, hành Tài vận hóa Thương sinh Quan phá Ấn, là có cơ phát sinh, lấy ở trên làm chìa khóa cơ bản.

Mậu Thân, Kỷ Mùi, Canh Ngọ, Bính Tuất
Đạo Quang năm thứ 28, tháng 6, ngày 28, giờ Tuất.
Mệnh Triệu Thư Kiều: Địa chi Ngọ Mùi Thân phối kẹp Dậu Nhận, Canh kim ám vượng, Bính hỏa xuất can, hành Bắc phương thủy vận, xuất thân là Hàn lâm (Quan hàn lâm coi về việc văn thư), làm quan tới Thượng Thư ( là đứng đầu quan coi giữ Kinh thư trong triều), Sửu vận năm Tân Sửu, hợp khởi Dương Nhận, kèm theo quản lý quyền hành pháp luật trị quân cướp bóc.

Canh Ngọ, Quý Mùi, Canh Thân, Đinh Hợi
Đồng Trị năm thứ 9, tháng 6, ngày 25, giờ hợi.
Mệnh Hùng Hi Linh: Đinh thấu Giáp tàng, chuyên dụng Đinh hỏa, Quý thủy thương Đinh là bệnh, tới Mậu vận khứ Thương, địa vị là Tổng Quỹ, có tiếng lưu danh.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thất nguyệt Canh kim (Tháng 7, Thân, Lập Thu)

(Tháng 7 Canh kim nắm lệnh, đã đến đỉnh điểm quá cứng nhọn, chuyên dụng Đinh hỏa nung luyện, sau lấy Giáp dẫn ánh sáng cho Đinh)

Thư viết:
Thu kim duệ duệ tối vi kỳ,
Nhâm quý tương phùng tổng bất nghi,
Như phùng thủy hỏa lai thành cục,
Thí khán phúc thọ dữ sơn tề.


Sách viết:
Thu kim rất nhọn đứng đầu kỳ,
Nhâm Quý gặp nhau nói không hợp,
Như gặp thủy hỏa lại thành cục,
Xem thử phúc thọ cùng núi sông.

Tháng 7 Canh kim nắm lệnh, khí rất là nhọn cứng, Minh Lý phú nói: Cường kim đắc thủy, phương tỏa kỳ phong (Kim cường gặp thủy thì mới ngăn cản được mũi nhọn), tự cần có thủy để tiết, không hiểu tính chất của Canh kim, nhất định cần nung luyện mới thành đại khí, lấy dụng Đinh hỏa là quý. Giáp mộc sinh ở Dần, cần tiết mà không cần khắc, Canh kim sinh ở Thân, nên không có cần tiết, ngũ hành đều có chỗ thích nghi, mà bao gồm cả quan hệ với khí hậu, lý lẽ này chỉ có ở quyển sách này có phát minh (Nguyệt lệnh Kiến Lộc, lấy Tài Quan làm chính dụng, đầu Xuân Giáp mộc hỉ Bính là ngoại lệ, giữa Xuân tức cần Tài Quan) nung luyện Canh kim, Đinh hỏa là ở trên, mà Đinh hỏa nhất định dựa vào Giáp mộc để dẫn, mới có thể lò lửa thường đỏ hồng, cho nên lấy Giáp làm phụ tá. Trích Thiên Tủy nói: Như hữu đích mẫu, khả thu khả đông, đinh hỏa bất ly giáp mộc, thu đông vưu thậm (ý nói, như có chính Mẫu, đều được cả Thu lẫn Đông, Đinh hỏa không thể cách ly Giáp mộc, Thu Đông càng nặng).

Như đắc đinh giáp lưỡng thấu, quyền trọng bách liêu, hữu đinh vô giáp, tú sĩ, hữu giáp vô đinh, thường nhân, đinh giáp lưỡng vô, hạ cách, vô đinh, tắc cô dụng bính.
(Như được Đinh Giáp cùng thấu, thì quyền hành đứng đầu trăm quan, có Đinh không có Giáp là tú sĩ, có Giáp không có Đinh, là thường nhân, Đinh Giáp đều không có là hạ cách, không có Đinh, thì đơn độc dụng Bính)

Canh kim được Đinh Giáp là ức vượng kim khiến cho đi vào khuôn khổ, nhất định chủ uy quyền, không có Giáp, Đinh hỏa nhất định suy yếu, nung luyện Canh không thể thành khí, chỉ là tú sĩ, có Giáp không có Đinh, cùng là đường sinh Tài cách, gặp mộc hưu tù, Tài tinh không vượng, y lộc bình thường, không có Đinh dụng Bính, cũng có thể lấy phú quý duy chỉ hơi khiêm nhường mà thôi.

(Hoặc chi thành thủy cục, trong trụ dù có Bính Đinh, không thấy Giáp mộc là căn, nhất định chủ ngu hèn, là sao vậy? Đầu Thu kim vượng sinh thủy, vây khốn Bính Đinh hỏa, sao có thể trở nên nỗi bật, thấy Giáp xuất ra dẫn Đinh, tiến cử làm giám sát sinh viên, Giáp tàng thì bất quá cũng chỉ là kẻ sĩ có tài năng ở một phương, hơi có ý lộc mà thôi)

Chi thành thủy cục, không thấy Bính Đinh, thiên can có 3 Canh cùng thấu, tên gọi là Tỉnh Lan nghĩa cách, lấy đối xung Bính Đinh hư thần làm dụng, lại cần có Giáp Ất Dần Mão vận để dẫn, thấy Bính Đinh thì dụng thực không dụng hư, thủy vượng hỏa suy, là Thực Thương chế Quan Sát thái quá, không thể dụng cục sinh Tài, thứ tự là tường thuật lý lẽ, tháng 7 có Nhâm thủy trường sinh, lại thành thủy cục, thủy cực vượng vậy, dù ở địa chi, khí Bính Đinh tự khiếp sợ, sao có thể mà nung luyện Canh kim thành khí, không thấy Giáp mộc tiết thủy sinh hỏa, sao có thể hiển dụng chăng? Có Giáp mộc xuất can, không mất là tiến cử giám sát sinh viên, Giáp tàng không có lực, chỉ là kẻ sĩ hơi có tài năng, khó mà hiển đạt vậy.

(Hoặc có chi thành thổ cục, trước dụng Giáp sau dụng Đinh, là người đại phú)
Chi thành thổ cục, thì khai thông thổ là cần thiết, phá thổ thì kim hiển lộ, dẫn Đinh thì địa vị cao, dụng Tài làm chủ, là đại phú vậy.

Chi thành hỏa cục, là người phú quý. Chi thành hỏa cục, không cần lại thấy Giáp mộc để dẫn, là do ở trong Dần tự có Giáp mộc vậy.

(Kim cứng mộc sáng, là người ngồi mua bán dạo, kim gặp đất Thân Dậu Tuất, là phú quý không nghi ngờ, Kim thần nhập hỏa hương, gặp Dương Nhận, là vinh hoa phú quý)

Ba câu văn ở trên bị cắt bỏ khi sao chép bản gốc, hiện nay ở cuối sách Cùng Thông Bảo Giám có kèm theo phụ lục, kim cương mộc minh, là nói chuyên dụng Tài tinh, là người đi bán dạo, kim gặp Thân Dậu Tuất tụ Tây phương, có hỏa thì dụng Quan Sát, không có hỏa là Tòng Cách cách, cho nên phú quý là không có nghi ngờ, Canh kim thấy Dậu là Dương Nhận, mùa gặp ba tháng mùa Thu. Canh kim đang vượng, được hỏa nung luyện, lại hành Nam phương vận, gọi là Kim thần nhập hỏa hương, thì cường kim sẽ làm khuôn mẫu, tự có một loại tinh thần uy vũ bất khuất, tháng 7,8,9 thì luận như nhau, xem chỗ này sẽ rõ:

Mậu Thân, Canh Thân, Canh Thân, Bính Tý
Tỉnh Lan nghĩa cách, là Nguyên soái.
Ghi chú: Tạo này Thân cường Sát yếu, là Giả Sát làm công, chuyên đến thời thượng Thiên Quan làm dụng, Tý Thân hợp thủy cục, có Mậu thổ chế, Bính không bị vây khốn, nắm quyền binh trong tay.

Quý Tị, Canh Thân, Canh Thân, Đinh Hợi
Nhất bảng, Phủ Doãn.

Ất Mùi, Giáp Thân, Canh Tuất, Đinh Hợi
Trước bần sau phú, Tử tiếu.
Ghi chú: Lấy hai tạo ở trên, đều dụng Đinh hỏa, hiển đạt rất rõ ràng.

Tân Dậu, Bính Thân, Canh Tý, Bính Tuất
Hàm Phong năm thứ 11, tháng 7, ngày 14, giờ Tuất.
Mệnh Vương Sĩ Trân: Chi gặp Thân Dậu Tuất tụ Tây phương, Tý Tuất củng Hợi, Bính Tân hợp khứ một Sát, chuyên dụng thời thượng Bính hỏa, là Kim thần nhập hỏa hương, phú quý vinh hoa, là Lĩnh tụ quân phiệt Bắc Dương (cuối đời Thanh chỉ vùng duyên hải Phụng thiên - Liêu Ninh, Trực lệ - Hà bắc, Sơn đông).

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Bát nguyệt Canh kim (Tháng 8, Dậu, Bạch Lộ)

(Tháng 8 Canh kim vẫn còn tính chất cứng nhọn chưa thoái lui, vẫn dụng Đinh Giáp, lấy Bính làm phụ tá, Bính hỏa không thể thiếu vậy)

Canh kim ở tháng 8 là tháng đủ thành Dương Nhận nắm lệnh, kim khí đứng đầu là cứng nhọn, nhận khí dần dần hết, uy lực hàn lạnh ngày càng nặng, cho nên cần có Bính Đinh cùng dụng, lấy Đinh nung luyện Canh kim vậy, lại lấy Bính hỏa để giải trừ hàn khí, chỗ này là phép lấy Quan Sát cùng dụng, theo kinh nghiệm mà nói, Quan Sát không phải đặc biệt không kỵ hỗn tạp, lại nhất định cần cùng thấy, mới có thể lấy quý vậy, tư tưởng Sát Nhận cách, là Nguyệt lệnh có Sát đang vượng thì cần dụng Ấn trợ Nhận, Nhận đang vượng thì cần dụng Tài sinh Sát, chỗ này là chỗ ngũ hành giống nhau vậy.

Đinh Giáp cả hai cùng thấu, lại thấy 1 Bính, khoa giáp hiển quan, mà tháng lại thấy 1 Dương Nhận, không xung, chi tàng một điểm Bính Sát, gọi là Dương Nhận giá Sát, chủ xuất tướng mà nhập tướng, lại là người trung thực thẳng thắn, như không nghiệm, là do phong thổ yếu kém vậy.

Chỗ này là nói phép dụng Đinh Bính cùng lúc, Nguyệt lệnh là Dương Nhận nắm lệnh, Quan Sát nhất định cư ở ngôi tuyệt, thai, lực lượng là suy nhược, cần có Tài để sinh, cho nên nói Đinh Giáp cùng thấu vậy, Dương Nhận kỵ xung, không phải lệnh cuối cùng hiện ra, cho nên lấy không xung là hoàn mỹ, Đinh thấu Bính tàng, là Quan Sát hỗn mà không hỗn, Kim Thanh Ngọc Chấn phú nói: Tòng cách lại xuất ra ở Tam Kỳ, huyết Lộc đến ngàn năm mà chưa hết, Tam Kỳ là Ất Bính Đinh (hoặc Mão Tị Ngọ) Canh kim đến nơi Nhận, lại gặp Tam Kỳ, nhất định chủ xuất tướng nhập tướng, là người chính trực trung lương, như nếu không quý nhất định đặc biệt là có phá bại, cần tinh tế mà suy ra.

(Hoặc Bính hỏa rất nặng, có 1 Đinh xuất can, chi ở dưới tàng Giáp, cũng chủ khoa giáp làm quan, Bính xuất Đinh tàng, khác đường hiển chức)
Tiếp đoạn văn ở trên, là luận Sát Nhận quân bình, địa vị là vương hầu, chỗ này nói Sát vượng Nhận khinh, cũng chủ khoa giáp làm quan, Sát Nhận phần đa chủ Vũ chức, cho nên nói là khác đường quan chức.

(Hoặc Bính Đinh ở chi, Giáp thấu mà thủy không thấu, rốt cuộc chỉ là thanh cao, kẻ sĩ tú tài có năng lực)
Tiếp đoạn văn ở trên, cách cục Dương Nhận giá Sát, chỉ cần không có thủy vây khốn hỏa, tuy có Bính Đinh tàng cũng là kẻ sĩ thanh quý, lấy ở trên luận Quan Sát cùng dụng.

(Hoặc can không có Đinh hỏa, thấy nhiều Bính xuất ra, chỗ này là Sát quá nặng, có Nhận không thể lấy Tòng Sát luận, là người thường nhân, tức có 1 Bính thấu, tú mà không phú)
Chỗ này luận chuyên dụng Bính hỏa, Canh kim cần thấy Đinh hỏa nung luyện mới thành đại khí, không có Đinh thấy Bính, chí có nhất phú, nguyệt lệnh Dương Nhận nắm lệnh, tức là khiến cho Bính hỏa rất trọng, chi hội hỏa cục, khí thành thiên vượng, cùng không thể Tòng Sát, là không quý.

Hoặc Bính Đinh Giáp Ất hoàn toàn không có, chi hội kim cục, có thủy xuất can để tiết khí kim, chỉ có hành Tây Bắc vận, không thấy đất hỏa, chỗ này gọi là Tòng Cách, là người thanh nhã, trong phú có quý nhưng thường là gặp hung sự, như vận nhập hỏa hương phá cách, là chết ngay lập tức, hoặc trong trụ có hỏa phá cách, là người phiêu lưu cô khổ, là tăng đạo, vào vận đất mộc, cơm áo hơi phong phú, nhưng tóm lại là chỉ ở kẻ sĩ hợp làm nghề nghệ thuật.

Chỗ này là nói Tòng Cách cách, tứ trụ không có mộc hỏa, mà có chi thành kim cục, hoặc chi hoàn toàn thuộc Tây phương, kim khí thuần túy, thiên vượng một phương, Tòng cách thành cách, là Cường kim đắc thủy, phương tỏa kỳ phong, chuyên đến thủy để tiết khí kim, gọi là Kim thủy đồng tâm, tứ trụ thấy hỏa thì phá cách, hành vận cũng không thể nhập hỏa hương, nhưng lưu niên làm sao có thể chỉ toàn là hành Tây Bắc, cho nên thường gây ra hung sự, nếu đại vận tới Nam phương, mệnh nhất định gặp khó khăn kéo dài, thứ đến là luận có hỏa phá cách cục, nguyên mệnh có thủy xuất can vây khốn hỏa, có thể lấy Sát Nhận cách, lại hành Tây Bắc, Quan Sát càng vây khốn, thế tất nhiền là phiêu lưu cô khổ, hành Đông phương mộc vận, tiết thủy sinh hỏa, tương đối có thể được, mộc, là Tài vận vậy, cho nên y thực hơi phong phú, nhưng cách cục hỗn tạp, cho nên là nhất định là người làm nghề nghệ thuật lưu động vậy.

(Hoặc chi thấy Giáp Ất quá nặng, là người vô dụng vậy, kim vượng mộc suy, không phải hỏa không có chế, không thấy Bính Đinh, nhất định làm nghề nghệ thuật lưu động)

Tháng 8 Canh kim bỉnh lệnh, lấy luận dụng hỏa chế Nhận, là Sát Nhận cách, sau đó luận dụng thủy tiết kim, là Tòng Cách cách, chỗ này nói dụng Tài, kim vượng mộc suy, được hỏa thì giống Sát Nhận, được thủy là Thực Thương sinh Tài, Tòng cách không thành, là thương nhân lĩnh vực nghệ thuật lưu động vậy, lý là vượng kim không có dụng Ấn, không luận cũng biết.

Giáp Thìn, Quý Dậu, Canh Thân, Tân Tị
Tri châu.
Ghi chú: Chuyên dụng Tị cung Bính hỏa, Quý thủy ở can, lại được Giáp mộc dẫn hóa, Bính hỏa không bị thương, cho nên lấy quý.

Ất Tị, Ất Dậu, Canh Ngọ, Đinh Hợi
Tài vượng sinh Quan, là Cử nhân, làm quan coi thuế một tỉnh.
Ghi chú: Tạo này có Đinh hỏa xuất can, đắc lộc ở Ngọ, Hợi cung tàng Giáp, cho nên so với tạo ở trên là thắng, cũng chưa là cao.

Bính Tý, Đinh Dậu, Canh Tý, Bính Tý
Thân vượng đảm nhận Sát, là Thừa tướng.
Chỗ này là triều đại nhà Minh, Kiều Hành Giản mệnh Thượng Thư : Can thấu 2 Bính 1 Đinh, Quý thủy ở chi, không tổn thương can Bính Đinh hỏa, địa vị là hàng Cực phẩm.

Đinh Mùi, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Ất Dậu
Trung mệnh.

Đinh Sửu, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Tân Tị
Cử nhân, tri phủ.
Ghi chú: Tạo ở trên có Đinh thấu không có Bính, tạo ở dưới thấu Đinh tàng Bính, hơi khác một chữ, hơi có địa vị.

Kỷ Hợi, Quý Dậu, Canh Thân, Mậu Dần
Dương Nhận giá Sát cách, là Thừa tướng.
Ghi chú: trong Dần có Bính hỏa chế Nhận, Dần Hợi đều tàng Giáp, dẫn sinh Bính Sát, thiên can Quý thủy có Mậu thổ khắc chế, ám hóa trợ Sát, đại vận nghịch hành Nam phương, địa vị ở hàng cực phẩm.

Quý Sửu, Tân Dậu, Canh Tý, Đinh Hợi
Hình khắc cô bần.
Ghi chú: Quý thủy tổn thương Đinh, là do không có thổ để cứu vậy, lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Tân Mão, Đinh Dậu, Canh Ngọ, Bính Tý
Khang Hi năm thứ 15, tháng 8, ngày 13, giờ Tý.
Vua nhà Thanh, mệnh Cao Tông (vua Càn Long), Sách nói: Tý Ngọ Mão Dậu, nhập cách là Tứ Cực, không nhập cách là Tứ xung, tạo này là Sát Nhận thông căn cùng thấu, là Sát Nhận cách, không lấy xung luận, lại có Đinh hỏa xuất can, thiên tử 60 năm thái bình, uy danh bốn bể, không phải chỗ tầm thường có thể cùng vậy, thọ 89 tuổi.

Canh Ngọ, Ất Dậu, Canh Tý, Nhâm Tý
Càn Long năm thứ 15, tháng 9, ngày 1, giờ Ngọ.
Mệnh Quyền thần Hòa Khôn: Chỗ năm cùng tháng gặp Ngọ Dậu tương phá, Quan tinh đái Nhận, lý là giống Sát Nhận, không bằng Nhật chủ Canh kim hợp Ất, lưu luyến Tài tinh mà không quan tâm Quan tinh, gọi là Tham Tài vong Quan, bao tàng dã tâm, quyền gian có khác, đại để loại này, ngày giờ có Tý Ngọ tương xung, cho nên về sau kết cục không tốt vậy.

Mậu Thân, Tân Dậu, Canh Thân, Tân Tị
Đạo Quang năm thứ 28, tháng 8, ngày 19, giờ Tị.
Mệnh Tôn Di Nhượng: Làm quan tới chủ sự, là kim đa hỏa tức, sách kể là thầy dạy học nổi tiếng.

Đinh Tị, Kỷ Dậu, Canh Tý, Đinh Hợi
Mệnh Chu Cổ Vi thầy mưu kế, 2 Đinh xuất can, Bính Giáp tàng chi, địa vị là quan Thị Lang.

Giáp Thân, Quý Dậu, Canh Thìn, Đinh Hợi
Quang Tự năm thứ 10, tháng 8, ngày 9, giờ Hợi.
Mệnh Vương Thụ Thường: Đinh Giáp xuất can, tiếc là không có Bính hỏa, là Tổng Lĩnh sư lữ đoàn.

Quý Tị, Tân Dậu, Canh Thân, Bính Tuất
Quang Tự năm thứ 19, tháng 8, ngày 11, giờ Tuất.
Mệnh Thạch Hữu Tam: Chi gặp Thân Dậu Tuất Tây phương, Bính hỏa xuất can, đắc lộc ở Tị, là Giả Sát vi quyền, trụ không có Đinh hỏa, làm Tổng Lĩnh Sư đoàn, địa vị là Chủ tịch tỉnh.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Cửu nguyệt Canh kim (Tháng 9, Tuất, Hàn Lộ)

(Tháng 9 Mậu thổ nắm lệnh, sợ nhất là Thổ dày chôn vùi kim, trước dụng Giáp khai thông, sau dụng Nhâm rửa, kim tự xuất ra vậy, kỵ thấy Kỷ thổ làm đục Nhâm thủy)


Tháng 9 Canh kim ở trước tiết Sương Giáng, cùng tháng 8 luận như nhau, sau là thổ vượng dụng sự, bên trong không có hình, lấp kín vũ trụ, sợ nhất Mậu thổ xuất can, là Thổ hậu mai kim, nhất định lấy Giáp mộc là tước tiên, lại lấy Nhâm thủy xung quét từng lớp thổ, dụng Canh kim tự nhiên hiển lộ, kim thủy cần trong thanh, thấy Mậu thổ thì Nhâm chảy dầm dìa, thấy Kỷ thổ thì đục khí Nhâm, cho nên cả hai Mậu Kỷ đều lấy xuất can là kỵ vậy.

Giáp Nhâm lưỡng thấu, khoa giáp có chắc chắn, kỵ thấy Mậu thổ Kỷ thổ, hoặc Giáp thấu Nhâm tàng, làm quan khoa Hương là không thiếu. Giáp tàng Nhâm thấu, có thể mưu cầu tiến cử. Có Giáp không có Nhâm, phần đa là kẻ sĩ có tài năng, do có học vấn. Có Nhâm không có Giáp, là người bình thường, chớ có hỏi Tú tài, Nhâm Giáp đều không có, là tăng đạo không có tài năng.

Tháng 9 Mậu thổ, vượng ở vô hình, được Giáp khai thông thổ, được Nhâm rửa kim, thì tự nhiên hiển đạt, như thấy Mậu Kỷ xuất can, thì một Giáp có lực là chưa đủ, cần được hai Giáp, mới có thể chế thổ vượng, xem thêm ở Tiết tháng 9 Tân kim, Giáp khai thông thổ thì Canh kim hiển dụng, chủ có địa vị danh vọng. Nhâm rửa kim tiết tú Canh kim, chủ học thức tài năng, cho nên ở giữa tàng hay thấu hoặc khinh hay trọng, cho nên sẽ ứng nghiệm khác nhau vậy.

(Hoặc chi thành hỏa cục, là người cầm đầu công danh, áp chế một phương, không thấy Quý thủy, có thể là nhất bảng)

Tiếp đoạn văn ở trên, tháng 9 thấy Tuất, thấy Dần Ngọ hội hỏa cục, không thể lại dụng Giáp mộc, thấy Giáp trái lại là trợ giúp hỏa vượng vậy, cần lấy Nhâm thủy để giải cứu, Mậu thổ mùa đang vượng, chi thành hỏa cục, thấy Quý nhất định hợp Mậu hóa hỏa, chỉ có như giọt thủy đưa vào lò lửa, trái lại là càng tăng thêm ánh sáng vậy.

(Hoặc tứ trụ có Mậu nhiều sinh kim, hoàn toàn không có Giáp gánh tài, là pha lẫn phát đao vụng về, dù có y lộc cũng không thể lâu bền)
Hoặc chích nhất canh, mậu đa vô giáp nhâm giả, ngu xuẩn hạ tiện, tất tao mai một.
(Hoặc chỉ có một Canh, Mậu nhiều không có Giáp Nhâm, là kẻ ngu xuẩn hạ tiện, nhất định gặp chôn vùi)

Tường thuật bổ túc ý nói là Thổ hậu mai kim, Mậu nhiều sinh kim là nói có Tỉ kiên xuất can, thổ nhiều kim cũng nhiều, thấy Đinh hỏa Quan tinh, cũng có thể làm dụng, nhưng kim khí không có tiết, cho nên là hỗn trọc, kim đầy thì không có thanh, cho nên là phác đao vụng về, dù có y lộc, không thể hưởng lâu dài, như có một Canh mà thấy Mậu nhiều, thì nhất định bị chôn vùi, cho nên là kẻ ngu xuẩn, là hạ cách vậy.


Đinh Mùi, Canh Tuất, Canh Tý, Đinh Sửu
Lưỡng bảng.
Ghi chú: Tạo này thổ không xuất ra, vẫn dụng Đinh hỏa, Týử thủy làm nhuận thổ sinh kim, chính là Canh kim ở ba tháng mùa Thu vậy.

Canh Dần, Bính Tuất, Canh Tuất, Tân Tị
Bá chủ một phương.
Ghi chú: Tháng 9 Tân kim dư khí do vượng, thấy Tân kim thấu, tức là Dương Nhận, lấy Bính hỏa Thất Sát chế Nhận làm dụng, địa vị bá chủ một phương, chức văn lẫn võ, chính là thấy rõ Sát Nhận cách vậy.

Tân Dậu, Mậu Tuất, Canh Thân, Giáp Thân
Thượng thư.
Ghi chú: Tạo này Mậu thổ xuất can, mà chi toàn là Thân Dậu Tuất, dụng Giáp phá thổ, vận hành Nam phương, địa vị là Thượng Thư.

Tân Dậu, Mậu Tuất, Canh Thân, Tân Tị
Là Tòng Cách cách, là Thái úy.
Ghi chú: Chi toàn là Thân Dậu Tuất ở Tây phương, Tân kim là Dương Nhận xuất can, nên lấy Tị cung Bính hỏa làm dụng, hỉ kỳ vận hành Nam phương, Thất Sát đắc địa mà quý, Sát Nhận chủ uy quyền, địa vị là Thái Úy, chấp chưởng binh quyền, tự không thể lấy tòng cách thành cách luận vậy.

Lại tạo nhà Minh ở phương Đông Đài Loan Vương Thiếu Khanh:
Tân Mùi, Mậu Tuất, Canh Thân, Tân Tị
Hơi khác một chữ, hoặc là gặp bôi sao chép, cũng không thể biết.

Nhâm Thân, Canh Tuất, Canh Tuất, Mậu Dần
Làm nghề thu thuế một tỉnh.
Ghi chú: Tạo này Mậu thổ xuất can, lấy Dần trong có Giáp mộc khai thông thổ, Nhâm thủy rửa Canh, tiếc là Giáp tàng Mậu thấu, địa vị ở hàng trung đẳng.

Ất Hợi, Bính Tuất, Canh Dần, Kỷ Mão
Nữ mệnh, dụng mộc khai thông thổ, được phong cáo Nhất phẩm.
Ghi chú: Tạo này Kỷ thổ xuất can, dụng Giáp mộc khai thông thổ, Nhâm thủy chế Sát làm dụng, lấy ở trên tạo ra chìa khóa cơ bản.

Giáp Thân, Giáp Tuất, Canh Thìn, Nhâm Ngọ
Đạo Quang năm thứ 4, tháng 8, ngày 20, giờ Ngọ.
Mệnh Tằng Trung tướng công ( Quốc Thuyên ): Giáp mộc phá thổ, nhâm thủy nhuận thổ sinh kim, mà dụng Ngọ cung Đinh hỏa, cho nên địa vị không do ở Khoa giáp, địa chi Thìn Ngọ Thân Tuất, liên châu giáp củng, địa vị là tướng soái biên cương, phong chức Tử tước ( nhà quý tộc xếp cao hơn Nam tước và thấp hơn Bá tước).

Canh Thân, Bính Tuất, Canh Tuất, Nhâm Ngọ
Hàm Phong năm thứ 10, tháng 9, giờ Ngọ.
Mệnh Vương Đan Quỹ: Canh kim đắc lộc ở Thân, chi thành hỏa cục, công danh đứng đầu, Sửu vận năm Canh Dần, lấy thành phần Tiến sĩ, làm quan giám sát quản lý Tài chính tỉnh Chiết Giang, đứng đầu quản lý Cục Thủy Lợi.

Quý Hợi, Nhâm Tuất, Canh Thân, Canh Thìn
Đồng Trị năm thứ 2, tháng 9, ngày 16, giờ Thìn.
Mệnh Đào Quýnh Chiếu: Chuyên dụng Nhâm thủy tiết tú, được tiến cử đề bạt, đặc biệt khoa kinh tế, trải qua danh tiếng ở huyện, địa vị Phủ Doãn, lấy Giáp mộc tàng ở Hợi, khai thông thổ không có lực, cho nên địa vị bất quá hàng trung đẳng vậy.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thập nguyệt Canh kim (Tháng 10, Hợi, Lập Đông)

Tháng 10 thì thủy lạnh kim bế tắc, không có Đinh không thể bồi dưỡng, không có Bính không thể sưởi ấm. Tháng 10 Nhâm thủy nắm lệnh, Canh kim khí bị tiết mà hàn lạnh, Canh tính kiên cường, không có Đinh không thể nung luyện, hàn khí dần dần tăng, không có Bính không thể giải hàn, cho nên Quan Sát, nhất định phải cùng thấy là tốt, dụng Đinh không thể cách ly Giáp mộc, Đinh làm chủ, Bính Giáp là phụ tá, Bính Đinh lưỡng thấu, chi không có Tý thủy thông lưu, thì được nhất bảng, lại thấy Dần Tị tích trữ cho Bính hỏa, lưỡng bảng có chắc chắn, hoặc trong chi có 2 Tý, được Kỷ xuất chế, tiến cử là Tú tài, mà lại có năng lực.

Hợi cung là đất Canh kim bệnh địa, lại thấy chữ Tý, thủy thành phương cục, khí Canh kim càng thấy tiết nhược, chỗ hỉ ở Bính Đinh, thủy thịnh thì khí hỏa sợ hãi, cho nên lấy chi không có Tý là Quý thủy thông lưu. Bính Đinh cùng lấy gốc là Dần Tị, chi không có Tý thủy mà thấy Dần Tị, dẫn thông khí Bính Đinh, thì khoa giáp có chắc chắn. Hoặc chi thấy 2 Tý mà được Kỷ thổ xuất chế cũng có công danh, là sao vậy? Kỷ thổ hỗn Nhâm, có thể sinh Giáp mộc, mộc được sinh phù. Bính Đinh tức có chỗ dựa mà không có sợ hãi, chỗ này lý lẽ phản sinh, cho nên không chỉ là tầm thường nho lâm tú sĩ.

Ba tháng mùa Đông Canh kim, thủy vượng nắm lệnh là Kim thủy chân Thương Quan, là kim hàn thủy lãnh, không có Bính Đinh không ấm áp, Canh kim khí tiết, nguyên mệnh là thân nhược, cần hành Tỉ Kiếp vận, chỗ gọi là Thương quan tối hỉ Kiếp tài hương là vậy. Không thể dụng Ấn, Kim thủy hỉ thanh, thấy thổ thì hỗn trọc, Phú nói: Kim thủy rất thông minh, có thổ trái lại thành ngu muội vậy.

Nếu Bính Giáp thấu mà không có Đinh là thường nhân, quyết không có hiển đạt, Bính thấu Đinh tàng, là đường vũ chức, lấy ở trên đều không thể hợp, là kẻ thấp hèn thường nhân. Bính Giáp thấu mà không có Đinh, không thể giả khí Canh Mậu, cho nên không có hi vọng hiển đạt, tóm lại nấu chảy Canh kim chỉ có ở Đinh hỏa, giải hàn trừ băng thì là Bính hỏa, chỗ này nói phép thủ dụng, thân cường thì hỉ Bính Đinh vận, thân nhược thì hỉ Tỉ Kiếp vận, cho nên không thể không biết vậy.

Hoặc không có Đinh, có Bính thấu là Đại phú.

Tiếp đoạn văn ở trên không có Bính Giáp xuất can, Canh kim dù không thành khí, mà thủy ấm thì kim ấm, tất nhiên là phú cách. Như kim thủy hỗn tạp, hoàn toàn không có Bính Đinh là hạ cách, hoặc chi thành kim cục, không có hỏa thì là mệnh tăng đạo cô bần vậy, sách viết: Thủy lãnh kim hàn ái Bính Đinh.

Tổng kết đoạn văn ở trên, tháng 10 Canh kim là thủy lãnh kim hàn, không thấy Bính Đinh, không thể thủ quý, trừ phi hợp ở ngoại cách mà thôi.

Đinh Hợi, Tân Hợi, Canh Tý, Nhâm Ngọ
Giáp Đinh đều có đủ, 2 Đinh được vị trí, là họ Liêm tìm hiểu.

Nhâm Thìn, Tân Hợi, Canh Thìn, Bính Tý
Nữ mệnh, kim thanh thủy tú, Phu vinh Tử quý, đẹp mà còn hiền.

Canh Thìn, Đinh Hợi, Canh Tý, Canh Thìn
Gia Khánh năm thứ 25, tháng 10, ngày 17, giờ Thìn.
Mệnh Trương Khải Tung: Đinh hỏa nung luyện kim, địa vị Tuần Phủ.

Canh Dần, Đinh Hợi, Canh Dần, Ất Dậu
Đạo Quang năm thứ 10, tháng 10, ngày 6, giờ Dậu.
Mệnh Phan Tổ Ấm: Đinh thấu Bính tàng, làm quan Thượng Thư.

Nhâm Ngọ, Tân Hợi, Canh Thìn, Bính Tý
Quang Tự năm thứ 8, tháng 10, ngày 27, giờ Tý.
Mệnh Chu Diệu Đông: Bính thấu Đinh Giáp cùng tàng, tiếc là Đinh hỏa tàng ở Ngọ, không có lực đủ, xưa gia đình giàu có, địa vị Trưởng Sở Diêm Nghiệp Bộ Tài chính.

Quý Mùi, Quý Hợi, Canh Ngọ, Mậu Dần
Quang Tự năm thứ 9, tháng 10, ngày 23, giờ Dần.
Mệnh Phan Phục: Dần Ngọ hội cục, Bính Đinh Giáp đều tàng, tốt ở Mậu Quý tương hợp, Mùi hợi hội cục, ám trợ hỏa vượng, địa vị Bộ trưởng Tài Chính, lên Tổng Quỹ, mất ở Ngọ vận năm Bính Tý.

Mậu Tý, Quý Hợi, Canh Dần, Mậu Dần
Quang Tự năm thứ 14, tháng 10, ngày 12, giờ Dần.
Mệnh Quan Sinh: Bính Giáp tàng ở Dần, tiếc là có Bính không có Đinh, phú mà không quý, nổi danh là nhà tư sản công nghiệp.

Giáp Ngọ, Ất Hợi, Canh Thìn, Kỷ Mão
Quang Tự năm thứ 20, tháng 11, ngày 8, giờ Mão.
Mệnh Trữ Tử Văn: Giáp mộc xuất can, Đinh hỏa đắc vị, Tài vượng sinh Quan, Ất hợp ở Canh, Hợi Mão hội cục dẫn sinh Đinh hỏa, kì diệu ở Nhật nguyên Canh Thìn không nhược, nên là đại phú quý, địa vị là Viện trưởng Hành Chính, Tổng đốc năm quyền tiền tệ.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thập nhất nguyệt Canh kim (Tháng 11, Tý, Đại Tuyết)

(Tháng 11 khí trời rất hàn lạnh, vẫn trước tiên dụng Bính chiếu ấm)

Canh kim ở ba tháng mùa Đông, cùng là kim thủy chân Thương quan, cùng tháng 10 lý lẽ giống nhau mà suy, chuyên lấy Bính Đinh làm dụng, Giáp mộc làm phụ tá, chỗ này nói trước tiên lấy Bính chiếu sáng, khí trời rất hàn lạnh, lấy Bính làm dụng, quan trọng ở Đinh Giáp vậy.


Đinh Giáp lưỡng thấu, ở trong có Bính, thì khoa giáp có chắc chắn, dù không có Bính hỏa, cũng có tiến cử làm giám thị sinh viên. Có Đinh không có Giáp, Đinh hỏa vô căn, là chân phú giả quý, là tay trắng gây dựng cơ đồ. Có Giáp không có Đinh, là người tầm thường. Bính thấu Đinh tàng, hiển đạt bằng con đường khác, có thể định đường vũ chức, là kim thủy Thương quan hỉ thấy Quan, lấy Đinh Giáp Bính đều đủ là thượng cách, giống ở trên tháng 10, nguyên mệnh có thân vượng, hành Tài Quan vận khởi phát, nguyên mệnh thân nhược, thì hành Tỉ Kiếp vận sẽ phát.

Canh kim tới tháng Hợi Tý, là đất bệnh, tử, thủy vượng tiết khí, thấy Mậu Kỷ Ấn thì kim thủy mất thanh trong, cho nên chuyên lấy Tỉ Kiếp, kim thủy hàn lạnh, là bắt đầu thấy điều hậu, không thể không có Bính Đinh, nếu không, không đủ nói là phú quý.

Nguyên mệnh có Bính Đinh, lại xem Canh kim cường hay nhược mà luận, vận trình là nghi hay kỵ vậy, như một tạo:
Ất Sửu, Đinh Hợi, Canh Tý, Nhâm Ngọ
Có Đinh không có Giáp, là chân phú mà giả quý, Canh kim khí nhược, hành Thân Dậu vận, là hiển đạt khác đường, lý lẽ là ứng nghiệm, có Giáp không có Bính Đinh, chuyên dụng Giáp mộc Tài tinh, tiết khí Thực Thương, là người buôn bán hàng rong, không đủ để lấy quý vậy.

Hoặc Bính thấu Quý xuất, phần đa là thường nhân, có tài năng, hoặc gặp lại Bính thấu, có thể định là nhất phú, nhưng phần đa là vất vả khổ cực thô tục, hoặc Bính tọa ở chi Dần, thấy có 1, 2 , chân phú mà giả quý, thấy Quý xuất can, là giới hàn nho, không thấy Đinh Giáp Bính là Hạ cách.

Bính thấu Quý xuất gọi là Đống vân tế nhật (mây thành sương che phủ), dụng thần có tổn hại, cho nên phần đa là thường nhân, lực dụng dù có giảm, là do có ánh sáng còn lại, cho nên phần đa có tài năng, gặp lại Bính thấu, dù có Quý thủy xuất can, có thể định là nhất phú, nhưng phần đa là vất vả khổ cực thô tục mà thôi. Bính tàng ở bên trong (Dần Tị) được dụng để giải hàn, giống như tháng 10, không có Đinh có Bính, cách thành cự phú, thấy Quý thủy xuất can, Bính Đinh áp chế ở dưới, thấy Bính Đinh vận, lại gặp Quý thủy hồi khắc, cuối cùng là hàn nho mà thôi.

Hoặc chi thành thủy cục, không thấy Bính Đinh thì chỗ này là Thương quan cách, thông minh thanh nhã, y lộc luôn đầy đủ, là tiểu phú, nhưng con cháu gian nan, nếu Mậu thấu là đại quý
.

Chỗ này gọi là Kim thủy nhuận hạ, do Canh kim sinh ở giữa mùa Đông, khí tiết ở thủy, thấy chi thành thủy cục, lấy toàn cục mà luận, cách cục biến thành Nhuận hạ, cùng Giáp mộc sinh tháng Ngọ, chi thành hỏa cục, cách cục biến thành mộc hỏa viêm thượng, lý giống nhau vậy, thấy Mậu thổ thấu xuất lấy thổ là Quan, lấy Bính Đinh là tài, cả hai đều vượng sinh Quan, cách cục lấy quý (xem thêm Tiết Tân kim ở tháng 11) cùng Nhâm thủy sinh tháng 11 luận giống nhau, chỗ này là nói Mậu thấu không nói Bính, sơ lược vậy, (xem ở dưới mệnh của Tào Côn).

Hoặc Bính Đinh quá nhiều, gọi là Quan Sát hỗn tạp.

Thư viết:
Quan Sát hỗn tạp tối vô lương,
Hựu phạ thân khinh hữu tổn thương,
Như ngộ đông nam nhị vận địa,
Yên năng ai đắc quá thì quang.


Tạm dịch:
Quan Sát hỗn tạp xấu đứng đầu,
Lại sợ thân khinh có tổn thương,
Như gặp Đông Nam đất hai vận,
Làm sao qua khỏi mùa nắng chiếu.

Là quá rõ ràng, tự lấy thê lương, trong trụ một lúc có kim thủy, không vào đất hỏa thổ, chủ cả đời cô bần phiêu lãng, khó hi vọng thành đạt vậy.

Tiết này bản sao lược bỏ đoạn tạo ra chìa khóa căn bản, cái cục tạp loạn, không phải tạo tốt vậy, mùa Đông kim thủy Thương quan, Bính Đinh, là không thể thiếu, mà Bính Đinh quá nhiều, lại thành báu vật mặt trời đoạt chủ, kim tới giữa mùa Đông, rất sợ tiết khí, lại thấy Bính Đinh quá nhiều, sao không phải là Khắc tiết giao tập, hành Đông Nam đã sợ khắc thân, Bắc địa lại sợ tiết khí, duy chỉ có Tây phương đất Tỉ Kiếp là tốt nhất mà thôi.


Giáp Tý, Bính Tý, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ
Vũ chức.

Ất Mão, Mậu Tý, Canh Dần, Mậu Dần
Dụng Bính đắc vị, là chân phú mà giả quý.

Kỷ Mùi, Bính Tý, Canh Tý, Bính Tý
Không có Đinh dụng Bính, chỉ là Thiên Phi.

Tân Hợi, Canh Tý, Canh Thìn, Quý Mùi
Đinh Giáp ở chi, phú quý đều ít, tử tức gặp khó khăn.

Giáp Tý, Bính Tý, Canh Thân, Canh Thìn
Tỉnh Lan Nghĩa cách, Thượng thư.
Ghi chú: Tạo này là Tỉnh Lan Nghĩa cách, hành Đông Nam mộc hỏa vận, đại quý, lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Giáp Dần, Bính Tý, Canh Thân, Tân Tị
Hàm Phong năm thứ 4, tháng 10, ngày 25, giờ Tị.
Mệnh Trương Huân: Giáp Bính xuất can, thông căn ở Dần Tị, vận hành Canh Thìn, Tân Tị, đất Tỉ Kiếp, một thời cục thịnh, địa vị là Tuần Duyệt Sứ.

Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Canh Tý, Bính Tý
Đồng Trị năm thứ nhất, tháng 10, ngày 21, giờ Tý.
Mệnh Tào Côn: là Phi Thiên Lộc Mã cách, Bính hỏa xuất can, Tuất cung Mậu thổ đắc vị, là kim thủy nhuận hạ, chuyên dụng Bính Mậu, vận tới Đinh Tị, là thời đại đủ thịnh địa vị là Tổng Thống, có nói là giờ Mậu Dần, không biết ai đúng.

Kỷ Mão, Bính Tý, Canh Dần, Tân Tị
Quang Tự năm thứ 5, tháng 11, ngày 21, giờ Tị.
Mệnh Sử Lượng Tài: Canh kim tháng Tý, là tử địa vậy, tốt ở Canh Dần Sát Ấn tương sinh, dẫn tới thời thượng đất trường sinh, Bính hỏa Kỷ thổ cùng thấu, Bính hỏa là Độc Sát vi quyền, cho nên quyền trọng một thời, là họ Vương giới Báo chí, Bính hỏa được khí trường sinh, lộc vượng, Canh kim suy thoái, vận hành đất kim thủy, thịnh cực một thời, chỗ trọng là ở Ấn, thổ được thủy nhuận, là có thể sinh kim, tới Mùi vận năm Giáp Tuất, phá Kỷ thổ ấn, bị đâm mà chết.

Nhâm Ngọ, Nhâm Tý, Canh Thìn, Giáp Thân
Quang Tự năm thứ 8, tháng 10, ngày 27, giờ Thân.
Mệnh Thiệu Lực Tử : Sinh ở sau tiết Đại Tuyết 2 giờ, chuyên dụng Ngọ cung Đinh hỏa, tốt ở Giáp mộc xuất can dẫn đinh, địa vị là Bộ trưởng.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thập nhị nguyệt Canh kim (Tháng 12, Sửu, Tiểu Hàn)

(Tháng 12 hàn khí quá nặng, Sửu là thấp nê, càng hàn lạnh càng đóng băng, trước dụng Bính giải băng hàn, sau dụng Đinh hỏa nung luyện kim, Giáp mộc cũng không thể thiếu)

Canh kim ở ba tháng mùa Đông, không cách ly khỏi Bính Đinh, tháng Sửu dù có thổ vượng dụng sự, nhưng Sửu là thấp nê, băng kết ao hồ, không dụng Bính hỏa, không thể giải băng hàn, sau dụng Đinh Giáp, cùng với tháng 11 thì lý lẽ giống như nhau.

Bính Đinh lưỡng thấu, lại thêm Giáp mộc, là đại phú đại quý, có Bính không có Đinh Giáp, phú nhiều quý ít, có Đinh Giáp không có Bính là có tài năng Tú tài, không phú tự cũng quý, Quý thấu là thường nhân, nhưng có y lộc mà thôi. Có Bính Đinh không có Giáp thì tay trắng thành sự nghiệp, là khác đường hiển chức, là đạt thời đao bút. Bính hỏa là điều hậu, cho nên phú, Đinh hỏa nung luyện Canh, do đó quý.

Canh kim ở ba tháng mùa Đông, một lý mà thôi, lấy Bính Giáp Đinh đủ là thượng cách, Quý thủy xuất can, vây khốn Bính làm tổn hại dụng, cùng không có Bính là khác nhau, không có Bính là thanh bần, có Bính mà thành chỗ bị Quý vậy khốn, không mất y lộc, giống ở trên tháng 11, nên xem thêm vậy.

(Hoặc chi thành kim cục, không có hỏa, là người tăng đạo bần tiện, trog Tị có Bính hỏa hội cục thành kim, cho nên là hạ cách, như Đinh Giáp đều không có, dù chi thành kim cục, cũng là người vô dụng)

Chi thành kim cục, lại không thể không có Bính Đinh làm dụng, Tị Dậu Sửu hội thành kim cục, trong ba chi, kim khí cùng hội, chuyên nhất phân ra ngoài, trong Tị có Bính hỏa, y nhiên tồn tại, không phải không có thể dụng (xem thêm Tiết Quý thủy tháng 4) nhưng Bính hỏa chỉ là điều hậu, chi thành kim cục, Canh kim chuyển nhược thành cường, cần dụng Đinh hỏa để nung luyện kim, Tị cung chỉ có một điểm Bính hỏa, lực lượng là suy yếu, dù có cũng như không, nếu có Đinh hỏa xuất can, Tị tức có căn, vận hành Nam phương, trong Tị có một điểm Bính hỏa, tức là gốc chủ yếu ám tàng, không thể lấy không có mà không chú ý.

Kỷ Hợi, Đinh Sửu, Canh Ngọ, Bính Tuất
Nữ mệnh, Sát vượng thân khinh, dù sinh ra ở nhà quan, sớm yểu.
Ghi chú: Tạo này Nguyệt lệnh Chính Ấn xuất can, thời thơ ấu hưởng phúc ông bà để lại, Ngọ Tuất kết cục, Bính Đinh cùng thấu, kim bị hỏa nấu chảy, nên sớm bị chết yểu vậy.

Canh Thìn, Kỷ Sửu, Canh Tuất, Quý Mùi
Nữ mệnh, một chồng tới già, 5 con đều quý, là đại phú gia.
Ghi chú: Tạo này có chi toàn là Tứ Khố, Kỷ thổ xuất can, hỉ có Canh kim Tỉ kiên cùng thấu, thổ tuy vượng, sinh kim mà không vùi kim, phúc ấm càng đầy đủ, Quý thủy ở trụ giờ, tiết khí kim, là Tử tinh cũng thanh tú, thiên can thổ kim thủy cùng xuất ra ở Sửu cung, phúc trạch hậu hĩ.

Ất Tị, Kỷ Sửu, Canh Tý, Nhâm Ngọ
Kim thủy thái vượng, Đinh hỏa vô căn, là người tàn phế.
Ghi chú: Bệnh ở Tý Ngọ xung, trong Ngọ có Đinh hỏa bị tổn thương vậy.

Kỷ Tị, Đinh Sửu, Canh Tý, Giáp Thân
Kỷ Tị, Đinh Sửu, Canh Tý, Ất Dậu
Cả hai tạo ở trên là anh em sinh đôi, đều Cử nhân, em là sinh viên, người anh cả sau này lại để rơi xuống làm em, chiếm giờ Ất Dậu, mất Giáp không thể dẫn Đinh, Đinh dù có xuất can nhưng vô căn, cho nên địa vị có lớn nhỏ mà thôi.

Quý Sửu, Ất Sửu, Canh Thìn, Mậu Dần
Hàm Phong năm thứ 3, tháng 12, ngày 10, giờ Dần.
Mệnh Nghiêm Kỷ Đạo: Tốt ở giờ Mậu Dần, Dần cung ám tàng Bính Giáp, văn danh lan truyền khắp bốn bể, được địa vị được phong tước.

Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Thìn, Đinh Sửu.
Đồng Trị năm thứ 10, tháng 12, ngày 25, giờ Sửu.
Mệnh Lý Khai Tiên: Chi tụ tứ khố, thổ vượng sinh kim, Đinh hỏa xuất can, nung luyện Canh là là quý được đề bạt tiến cử xuất thân, địa vị là Tuần án sứ tỉnh Quãng Đông.

Quý Dậu, Ất Sửu, Canh Dần, Bính Tý
Đồng Trị năm thứ 12, tháng 12, ngày 16, giờ Tý.
Mệnh Trương Tái Dương: Bính hỏa thông căn ở Dần, Ất mộc hóa quý, không đến nỗi vây khốn Bính, nhiều lần đảm nhiềm trấn thủ, địa vị Tỉnh trưởng Chiết giang.

Tân Tị, Tân Sửu, Canh Thân, Tân Tị
Quang Tự năm thứ 7, tháng 12, ngày 2, giờ Tị.
Mệnh Lý Quốc Kiệt: là Tòng Cách cách mất lệnh, vận hành Tây Bắc phú quý tới Ất Mùi vận, khí chuyển Nam phương, năm Kỷ Mão tháng giêng, đột ngột gặp ám sát mất mệnh, thọ 59 tuổi, do Vong Kiếp đái hợp, cuối cùng là hết vậy.

Ất Mùi, Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Bính Tuất
Quang Tự năm thứ 21, tháng 12, ngày 4, giờ Tuất.
Hữu nhân cố úy văn mệnh.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Chính nguyệt Tân kim (Tháng Giêng, Dần, Lập Xuân)

Tháng giêng dương khí thư thả thăng lên, hàn khí do có chưa hết, nhưng mà gặp phải tháng Kiến Dần, trong Dần có Bính trường sinh, có thể giải hàn khí, nhưng kỵ Giáp mộc nắm quyền, Tân kim mất lệnh, tính thích thấp nê để dưỡng, trước lấy thổ là gốc sinh thân, sau dụng Nhâm thủy rửa sạch, mới có thể Tân kim hiển dụng.

Tháng giêng Tân kim, Dần cung tự có Bính hỏa, không cần tránh lấy thần điều hậu. Tân kim vốn là kim suy kiệt, lại gặp ranh giới hưu tù, không dụng Kỷ thổ sinh kim, không đủ để gốc rễ vững chắc, không dụng Nhâm thủy tẩy rửa, không đủ để hiển kỳ công dụng, cho nên tháng giêng Tân kim, không cách ly khỏi Kỷ Nhâm là dụng, nhưng kỵ Giáp mộc nắm quyền, tiết Nhâm phá Kỷ là bệnh, kim mất lệnh, không thể chế Giáp vậy.

Hoặc nói tháng giêng Canh kim, hỉ Bính giải hàn, kỵ thổ áp chế, sao lấy Tân kim là trái ngược, không biết là Canh kim cứng nhọn, tính chất tự hàn lạnh, cho nên hỉ Bính hỏa xuất can để giải băng hàn, Tân kim tính ôn nhuận, khí thanh mà yếu, có Dần cung Bính hỏa, là mặt trời quay về mặt đất (Dương hồi đại địa), kim khí tự ôn, nếu Bính hỏa xuất can, thì Bính Tân tương hợp, không thể không không dụng Quan tinh, Tân kim thái nhược, không thể gánh nổi Tài Quan, nhất định trái lại là chỗ bị vây khốn vậy, kim ở tháng giêng, không thể không có thổ, đặc biệt thổ nhiều thì có nguy cơ làm chôn vùi kim, Canh kim sinh vượng, thấy Mậu thổ nhiều, hỉ có Giáp mộc khia thông, còn Tân kim suy kiệt, dụng Kỷ thổ kỵ Giáp mộc phá Ấn dã, Canh kim lấy khắc làm công, Tân kim lấy tiết là đẹp, tính chất đặc thù vậy.

Kỷ Nhâm lưỡng thấu, chi có Canh kim chế Giáp, không tổn thương Kỷ thổ, Khoa giáp quan hiển lộ, Kỷ xuất thiên can, Giáp tàng ở chi Dần, không có Khoa giáp, cũng chủ khác đường ân vinh, hoặc trong Ngọ tàng Kỷ, trong Thân tàng Nhâm, không chỉ tiến cửu làm giám sát sinh viên, mà con đường khác thì càng hiển lộ, hoặc Kỷ Nhâm mất một, tên gọi là Quần thần thất thế, là phú quý nan toàn, tuy thông minh hơn người, nhưng chính đường thì khó phát đạt, hoặc dụng Bính hỏa, không học vũ, học đao bút lại lợi hơn, hoặc thấy Nhâm, không có Kỷ Canh là bần tiện.

Kỷ Nhâm lưỡng thấu tức là Kỷ thổ xuất can là thấu, thấy Sửu Mùi ở địa chi cũng là thấu, có thể lấy sinh Tân kim vậy. Chi có Canh kim chế Giáp là thấy chi Thân vậy. Dần Thân hỉ tương xung, lại có thể chế Giáp, Nhâm có thể nhuận thổ, Tân kim được Thân. Không vượng, tự vượng, chỗ này lấy tương chế làm dụng vậy, như Giáp mộc tàng ở Dần, Kỷ thổ xuất can, thì chi mộc khó khắc can thổ, Dần trong lại có Bính hỏa hóa, dù phối hợp hơi có đến, cũng chủ khác đường hiển đạt, trong Ngọ có Đinh Kỷ, được Thân cung Nhâm thủy khứ Đinh nhuận Kỷ thổ, Tân kim được Ấn Kiếp trợ giúp, Nhâm thủy rửa sạch, Kỷ Nhâm tuy không xuất can, cũng chủ hiển đạt, duy có khác đường mà thôi. Tháng giêng Tân kim lấy Kỷ làm chủ, Nhâm Dần là phụ, Kỷ Nhâm thiếu một, là Quân thần thất thế, là không đủ phú quý, hoặc có Kỷ Canh Ấn Kiếp, mà không có Nhâm, thì dụng Giáp Bính Tài Quan, không phải vũ chức, nhất định là bằng con đường văn bút, nếu thấy Nhâm mà không có Kỷ Canh, là kim cực nhược, sao mà kham nổi tiết khí, nhất định là mệnh bần tiện vậy.

Hoặc chi thành hỏa cục, tức có Nhâm thủy Kỷ thổ, không thể thừa nhận, cái hỏa khắc Tân kim thái quá, Kỷ tuy sinh mà vô ích, là thường nhân mà thôi, nếu Canh Nhâm lưỡng thấu, Nhâm để phá hỏa, Canh phát sinh gốc thủy, định là chủ phú quý hiển đạt.

Tân kim suy nhược, lại sinh ở tháng hưu tù, chi thấy Dần Ngọ Tuất thành hỏa cục, không được Nhâm thủy giải cứu, kim tất bị thương, nhưng Xuân thủy khí cũng gặp suy, cần có Canh kim sinh, mới có thể công chế hỏa tồn kim, nếu không, dù có Kỷ thổ, hỏa vượng thổ táo, không thể sinh kim, cũng vô ích vậy.

Hoặc chi thành thủy cục, không thấy Bính hỏa, kim nhược chìm trong hàn lạnh, là người tầm thường, lại sớm gặp khốn khổ. Sách viết: Kim thủy tính hàn rốt cuộc là hàn, thê lương khó miễn thiếu niên lo, như Bính thấu là ấm, liền chủ phú quý.

Chi thành thủy cục, tiết khí kim suy, phú cung Bính hỏa là gặp Thân Tý chỗ bị chế, cho nên là người tầm thường, tháng giêng Bính Tân không có lý lẽ là hóa thủy, chỗ này chuyên điều hậu, nhất định cần xuất can, mới hiển dụng, liền nói là chủ phú quý, Tân kim như có Ấn Kiếp trợ giúp, được Bính hỏa điều hậu, liền là cách phú quý, thân nhược gặp chỗ này, cũng có thể miễn ở khốn cùng vậy.

Tóm lại, tháng giêng Tân kim, trước dụng Kỷ sau dụng Nhâm, lấy Canh cứu Kỷ làm phụ tá, Bính hỏa cân nhắc mà dụng, dụng Kỷ thì hỏa là Thê thổ là Tử, dụng Nhâm thì kim là Thê thủy là Tử.

Tổng kết đoạn văn ở trên, tháng giêng Tân kim, không cách ly khỏi Kỷ Nhâm làm dụng, là do Dần cung có Giáp mộc nắm quyền, có phá quyền Kỷ thổ, cho nên lấy Canh kim chế Giáp là giải cứu, giống như Tân kim trong nhược chuyển thành vượng, kim thủy khí cường, thì dụng Bính hỏa, cần cân nhắc phân ra cường hay nhược mà định.

Tân là kim suy kiệt, không nên khắc chế, cho nên kỵ thấy hỏa, sinh ở tháng Dần, khí gặp hưu tù, kỵ thấy Ngọ Tuất hội thành hỏa cục, cho nên nói sợ nhất là lò lửa vậy. Triều Dương lấy ngày Lục Tân thấy giờ Tý là thành cách, chính là lấy kỵ hỏa mà dụng thủy để cứu vậy. Quyết nói: “Tân nhật tý thời, kỵ hành hỏa địa”, Tây Bắc hành đến thì cát, Đông Nam sợ hung, kim thủy là bao hàm thanh tú, lại bao gồm cả giải cứu, cho nên thành quý cách, nói số này cũng không phải chỉ có tháng giêng Tân kim, là do bản sao chép cắt bỏ chỗ làm ra chìa khóa căn bản, phụ lục dùng để tham khảo thêm.

Bính Thìn, Canh Dần, Tân Dậu, Kỷ Sửu
Có tài năng tú tài, nhiều huynh đệ, ít con, là do có Kỷ thổ mà không có Nhâm vậy.
Ghi chú: Tạo này có Kỷ thổ ở ngoài được Bính hỏa chiếu ấm, Canh kim chế Giáp, cách cục hơi thành, duy có thiếu Nhâm thủy, Tân tú khí không lưu thông, chỉ là một tú sĩ mà thôi.
Lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Ất Dậu, Mậu Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn
Quang Tự năm thứ 10, tháng 12, ngày 21, giờ Thìn.
Mệnh Hùng Bỉnh Kỳ : Sinh ở sau Lập Xuân một ngày, Dần cung Bính hỏa giải hàn, chuyên dụng Nhâm thủy, tuy không có Kỷ thổ mà có Thìn Dậu là kim lục hợp, đủ thành gốc sinh thân vậy.

Tân Mão, Canh Dần, Tân Hợi, Nhâm Thìn
Đạo Quang năm thứ 10, tháng 12, ngày 27, giờ Thìn.
Mệnh Đỗ Thụy Lân: Chuyên dụng Nhâm thủy, xuất thân là Hàn lâm, địa vị tới Tuần Phủ.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Nhị nguyệt Tân kim (Tháng 2, Mão, Kinh Trập)

Tháng 2 Tân kim, dương khí phát ra bên ngoài, Nhâm thủy làm chủ, thấy ở Kỷ liền làm Tân bệnh, có Giáp mộc chế, Tân kim không bị chôn vùi, Nhâm thủy không bị hỗn trọc, làm thanh dụng thần, như bệnh được dược, chỗ này là hợp với thanh cao nhã tú, tương ứng là Hàn lâm vậy.

Tân kim khí gốc suy kiệt, sinh ở tháng 1, 2, mùa gặp hưu tù, thấy thổ nhiều thì bị vùi lấp, thân tuy nhược không thể dụng Ấn, chất nhu nhược sợ nhất là lò lửa. Tân tuy nhiều không thể dụng Quan Sát, duy chỉ có Canh kim Kiếp trợ giúp, Nhâm thủy tiết là đứng đầu thượng cách, kim thủy cách Mậu, tối kỵ là Mậu Kỷ.

Kim Thanh Ngọc Chấn phú nói: Kim thủy chắc chắn là thông minh, có thổ trái lại thành ngu dốt, là do lấy thổ có thể vùi lấp kim mà làm đục Nhâm vậy, đắc giáp mộc vi khứ bệnh chi dược, tiện thành quý cách.

Hoặc Nhâm Mậu xuất can, không thấy Giáp xuất ra, chỗ này là bệnh không gặp dược, là thường nhân mà thôi, Ất thấu phá Mậu, thanh danh hư không, là giả phú quý, dù chủ có cơm ăn áo mặc cũng là người gian trá không tốt, bề ngoài có danh mà bên trong thì trống rỗng mà thôi.

Tiếp ở trên dụng Giáp phá Mậu ý là để cứu Tân Nhâm, Ất mộc âm nhu, có thể khắc thổ mà thực ra thì không có khắc, cho nên danh lợi đều là giả dối. Ất ở tháng 2 mùa cực vượng, mộc khí tuy có gặp lấy, thừa hiểu là có thể làm thương nhân, cho nên nói có thể chủ có cơm ăn áo mặc, nhưng không đủ để phá Mậu thổ, cho nên có tượng bên ngoài thì đầy đủ mà bên trong thì hư rỗng, chỗ này 12 cung là tuần hoàn lúc lên lúc xuống, lúc có lúc không, lần lượt di chuyển, thấy ở trạng thái bày ra, cũng không cần phân biệt tỉ mĩ vậy.

Hoặc một lúc có Nhâm thủy, gọi là Kim thủy uông dương, tẩy rửa quá mức, không được trung hòa, biết bao sự việc mà không thể dụng lực, vạn sự không thể thừa nhận, hợp chỗ này, nam nữ đều là không cát!

Hoặc chi thành mộc cục, xin tiết khí Nhâm, lại không có Canh kim trợ giúp Nhâm chế mộc, định là chủ thường nhân, Canh thấu chủ có phú quý hoặc thấy Nhâm thủy, Mậu chế quá nặng thì trái lại là không tốt.

Tân kim hưu tù, lại thấy Nhâm thủy như đại dương mênh mông, tiết nhược khí Tân kim, nhất định gây ra nhu nhược không có tài năng, dù cho có tòng và thành cách, lại thấy Tài tinh, không đủ thành quý không thể không thấy Canh kim, gọi là Tử vượng Mẫu suy, Tử thầm trợ giúp cho Mẫu. Dụng thần nhiều thì nên tiết mà không nên khắc (xem Tiết Giáp mộc) nếu thấy chi thành mộc cục, tuy có thể tiết khí Nhâm, nhưng mà mùa Xuân Tân thì quá nhược, không có Canh kim Kiếp trợ giúp, thì không thể gánh nổi Tài, là người bình thường, thấy Canh thì là cách phú quý, không có Canh bất đắc dĩ phải dụng Mậu, nói Mậu chế là không cát là không đến nỗi Nhâm bị tàn tật, Thổ trọng mai kim, không thể tránh khỏi bị áp chế ở dưới đất vậy.

Hoặc chi thành hỏa cục, gọi là Hỏa thổ thế tạp, là Quan Ấn tranh nhau, kim thủy đều bị thương, là bần tiện, hạ cách, được 2 Nhâm xuất ra chế, trái lại là phú quý, tháng 2 Tân kim, thấy chi thành hỏa cục, là Hỏa vượng kim dong, là mệnh tàn tật chết yểu, có Mậu Kỷ xuất can, là Hỏa vượng thổ táo, kim thủy đều bị thương cũng là bần tiện, hạ cách, nhất định có được Canh Nhâm lưỡng thấu để giải cứu (xem ở trên tháng 1) hoặc được 2 Nhâm xuất ra chế, đều là bệnh nặng mà được dược, trái lại là chủ phú quý.

Tóm lại, tháng 2 Tân kim, trụ không thành cục, Nhâm Giáp lưỡng thấu thì khoa giáp phú quý không có ngại, hoặc Nhâm tàng ở chi Hợi, không thấy Mậu thổ xuất can, cũng có thể có phú, đạt Tú tài, được Thân trong có Nhâm là khác đường danh vọng, hoặc chi có Nhâm, vừa lại có Giáp Nhâm xuất can, trong phú lấy quý, không có Nhâm là hạ cách, hoặc thấy hỏa nhiều không có Nhâm mà dụng Quý, là thường nhân, lý sinh khắc cùng với tháng giêng Tân kim là như nhau.

Tổng kết đoạn văn ở trên, trụ không thành cục là không thành mộc cục, hỏa cục, cùng thủy cục. Thân trong có Canh, cho nên Nhâm tàng ở chi Hợi, phú nhiều mà quý ít, tàng ở chi Thân dù có khác đường mà có địa vị tương đương có danh vọng vậy, thấy hỏa khắc chế, nhất định cần Nhâm thủy giải cứu, không có Nhâm dụng Quý, lực cũng chưa đủ, lại cần có Mậu Kỷ, mới có thể được dụng, nhưng cũng là thường nhân mà thôi.

Tân kim sinh ở mùa Xuân, có một lúc Nhâm thủy, mà không có Bính hỏa, tức có thể hiển đạt, chỗ ở không có đầy sức sống, được Nhâm Bính cùng thấu, mới có định là đại phú đại quý.

Chỗ này kể ra lới nói ý nghĩa mâu thuẫn, là biến cách vậy, Tân kim thấy một lúc có Nhâm thủy, khí thế tiết hết, tức lấy Nhâm thủy luận, thấy Bính là Tài, Nhâm Bính phụ trợ ánh sáng, phú mà kiêm cả quý (xem thêm Tiết ba tháng mùa Đông, kim thủy Thương quan biến cách) bản sao bỏ mất chỗ tạo ra chìa khóa cơ bản, kèm theo ở chỗ này, để mà tham khảo.

Ất Mão, Kỷ Mão, Tân Dậu, Giáp Ngọ
Dụng Thai Nguyên Canh kim phá mộc, địa vị là Thái Thú, thiếu Nhâm thủy, cho nên không có con cháu.
Ất Mão, Kỷ Mão, Tân Dậu, Nhâm Thìn.
Làm việc nơi thủ đô.

Ất Dậu, Kỷ Mão, Tân Mão, Bính Thân
Dụng Canh không dụng Nhâm, là do mộc nhiều vậy, dù làm quan tới chức Thị Lang, mất vợ, không con.
Lấy đúng ba tạo ở trên, đều dựa vào Thai Nguyên Canh kim là trợ giúp, tháng 2 Tân kim thái nhược, thấy Mậu Kỷ lại sợ bị chôn vùi kim, như không có Canh trợ giúp, tức là Nhâm thủy rửa trôi mất, lực cũng có không sinh vậy.

Kỷ Mùi, Đinh Mão, Tân Mão, Kỷ Hợi
Chuyên dụng Đinh hỏa, tiến cử làm quan, văn chương cái thế, là người cũng ôn nhã, thanh tuấn, nhưng có huynh đệ, thê tử không có lực.
Ghi chú: Chi hợp mộc cục, Kỷ thổ lại làm đục Nhâm thủy có trong Hợi, khí thế tiết hết, chỉ có thể dụng hỏa để tiết khí mộc lấy sinh thổ, Kỷ thổ xuất can, không thể lấy Tòng Tài luận, Tân kim thái nhược, là chỗ vạn sự không thể thừa nhận là vậy.

Kỷ Mùi , Đinh Mão, Tân Sửu, Mậu Tý
Trụ thiếu Nhâm thủy, cho nên là nô dịch.
Ghi chú: Không chỉ riêng trụ thiếu Nhâm thủy, lại thiếu tú khí vậy, Tý Sửu hợp, thấp thổ cùng nhau đông cứng, Mậu Kỷ xuất can, là Thổ trọng mai kim, không có Giáp mộc để cứu, nên bị áp chế ở dưới vậy, Xuân Hạ Tân kim, suy nhược mà không thể dụng Ấn, rất khó lấy dụng.

Giáp Ngọ, Đinh Mão, Tân Mùi, Kỷ Hợi
Tài vượng sinh Quan, là Trạng nguyên.
Ghi chú: Đinh Kỷ đồng cung ở Ngọ, được Giáp mộc ở trụ năm sinh Đinh hỏa, không tổn thương Kỷ thổ, chi thành mộc cục, là Tài vượng sinh Quan, Tân kim có Kỷ thổ Ấn tương sinh, liền thành quý cách.

Tân Mão, Tân Mão, Tân Mão, Mậu Tý
Cô quả.

Nhâm Tý, Quý Mão, Tân Mão, Nhâm Thìn
Nữ mệnh, kim thủy tràn ngập, lại thêm lấy vận hành Tây Bắc, chủ thiếu niên dâm tiện, về già sống cô quả.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa cơ bản.

Mậu Thân, Ất Mão, Tân Hợi, Mậu Tý
Đạo Quang năm thứ 28, tháng 2, ngày 7, giờ Tý.
Mệnh Chu Bảo Tam: Lục âm Triều Dương, hỉ Thân cung có Canh kim tiết Mậu thổ, thân vượng gánh nổi Tài, trong phú lấy quý, kim thủy vận đắc ý.

Canh Ngọ, Kỷ Mão, Tân Hợi, Kỷ Sửu
Đồng Trị năm thứ 9, tháng 2, ngày 15, giờ Sửu.
Mệnh Trần Hoạn: Canh kim xuất can, tiết Kỷ trợ Tân, dụng Ngọ có Đinh hỏa, Hợi Mão hội cục, là Tài vượng sinh Quan, làm quan Đô đốc tỉnh Tứ Xuyên.

Bính Tý, Tân Mão, Tân Sửu, Kỷ Hợi
Quang Tự năm thứ 2, tháng 3, ngày 9, giờ Hợi.
Mệnh Hồng Triệu Lân: Tài vượng sinh Quan, là Tổng lĩnh sư lữ đoàn, tiếc là Bính Tý và Tân Mão, hình hợp là bệnh mà thôi.

Đinh Sửu, Quý Mão, Tân Mão, Mậu Tuất
Quang Tự năm thứ 3, tháng 2, ngày 5, giờ Tuất.
Mệnh Lam Thiên Úy: Mậu chế Quý tồn Đinh, là Tài vượng sinh Quan, làm Tổng lĩnh sư lữ đoàn.

Giáp Thân, Đinh Mão, Tân Dậu, Canh Dần
Quang Tự năm thứ 10, tháng 2, ngày 15, giờ Dần.
Lộc Chung Lân: Canh kim xuất can trợ Tân, thân vượng gánh nỗi Quan, Đinh hỏa Quan tinh, ví dụ ở Giáp mộc, địa vị là ngay thẳng.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Tam nguyệt Tân kim (Tháng 3, Thìn, Thanh Minh)

Tháng 3 Mậu thổ nắm lệnh, Tân thừa chính khí, là Mẫu vượng Tử tướng. Tháng 3 Tân kim, cùng tháng 2 là như nhau, lấy Nhâm thủy làm chủ, là tháng Nguyệt viên Chính Ấn nắm lệnh, thấp thổ tương sinh. Tân kim khí thế cũng không nhược, Thìn là thổ ở Đông phương, mộc ở ngôi suy yếu, thấy đủ Dần Mão, mộc tụ thành phương, thì lấy mộc luận, không có Dần Mão, thì là đất thổ vượng, không luận mộc vậy.

Chỗ kỵ là có Bính xuất ra tham hợp vậy, như trụ tháng, giờ thấy 2 Bính xuất can, gọi là Tranh hợp, tuy là nhân vật tầm thường, cũng hỉ thanh nhã, thích giao du, như can năm thấy Quý phá Bính, có thể định là đủ áo cơm ăn học, nhưng nhật dụng có thiếu, hoặc chi tọa Hợi Tý Sửu, là Quý thủy thông nguyên, có thể lấy phá Bính giải hợp, liền dụng Canh trong Nhâm thủy, dù không có khoa giáp, nhưng không mất lộc vị, nếu Mậu xuất can phá thủy cục, không có Giáp phá Mậu, tài học phú túc, nhưng là kẻ sĩ hàn vi.

Tháng 3 Tân kim, tuy gặp Ấn vượng nắm lệnh, là cứu nơi hưu tù, hỉ Nhâm thủy là dụng, thấy Bính hỏa xuất can, sợ có tham hợp mà dụng thần không vững chắc, nhật chủ tình hướng về Quan tinh, cho nên tuy là nhân vật tầm thường, mà hỉ có tính thanh nhã, thích giao du, can năm thấy Quý (tháng Bính Thìn thuộc năm Mậu, Quý) chi không thông căn, phá Bính lực yếu, cũng là nho tú mà thanh bần, tất nhiên cần thấy Nhâm, mới có thể nói là phú quý. Nhâm thủy tàng ở Hợi Thân, tháng 3 thổ vượng dụng sự, Nhâm ở Hợi cung, có Giáp là phụ, cho nên không mất lộc vị. Không có Hợi mà thấy Nhâm ở Thân cung, tuy cũng có thể dụng, sơ giải cứu mà không có Giáp phá Mậu, cho nên thấy Thân Thìn hội thủy cục, mà không có thủy xuất can, tài học tuy phú nhưng cuối cùng là nghèo khó không thuận lợi vậy.

Tháng Thìn mùa thổ vượng, không có Mậu xuất can, giống như có vùi kim thì sợ thủy, nếu thấy rõ Mậu thổ phá thủy cục, mà không có Giáp mộc giải cứu, thì tài cao mà mệnh không thuận lợi, cuối cùng bị chôn vùi mà thôi, do đó tháng 3 Tân kim không thể cách ly khỏi Nhâm Giáp hỗ trợ giúp thành dụng vậy.

Hoặc chi thấy tứ khố, gọi là Thổ hậu mai kim, không thấy Giáp chế, trái lại là ngu dốt.

Tiếp đoạn văn ở trên, tháng 3 Tân kim, Nhâm thủy là dụng, Thổ trọng là bệnh, chi thấy tứ khố, can thấu Mậu Kỷ, là Thổ hậu mai kim, không thấy Giáp chế, là bệnh không gặp dược, là mệnh ngu si bần tiện, cuối cùng bị chôn vùi vậy.

Tóm lại, tháng 3 Tân kim, trước dụng Nhâm sau dụng Giáp, Nhâm Giáp lưỡng thấu, phú quý là tất nhiên, Nhâm thấu Giáp tàng, tiến cử cũng không mất, Giáp thấu Nhâm tàng, phú mà còn quý, là khác đường mà càng hiển lộ, Nhâm Giáp đều không có, cách bình thường.

Tổng kết đoạn văn ở trên, tháng 3 Tân kim, Nhâm thủy là dụng, đề phòng thổ tối mờ bế tắc, lấy Giáp là phụ, Nhâm Giáp lưỡng thấu, tất nhiên mệnh phú quý, Nhâm thấu Giáp sâu, tuy bị lực phá thổ mà không đủ, không mất tiến cử địa vị, Giáp thấu mà Nhâm tàng ở Thân Hợi, thì cùng Nhâm Giáp lưỡng thấu không có khác nhau, không có Nhâm Giáp, là cách bần tiện vậy.

Hoặc tứ trụ nhiều hỏa, không có một chữ Nhâm, gọi là Hỏa thổ tạp loạn, tuy có Giáp cũng không tốt, định là Tăng đạo cô bần, thấy Quý có thể giải hung, tháng 3 Tân kim nhu dụng Nhâm thủy, chính là lấy dương khí thư thả kéo ra. Tân kim ở ngôi Thai Dưỡng, do khí thế thành nhược vậy, nếu tứ trụ nhiều hỏa mà không có Nhâm thủy, tuy thấy Giáp mộc, cũng không thể phá thổ, trái lại là trợ giúp hỏa vượng, thấy Quý phá Bính, có thể định là đủ cơm áo đi học (xem đoạn văn ở trên) duy chỉ là kẻ thanh bần mà thôi.

Hoặc Tỉ kiếp quá nặng, Nhâm Quý kém nhược, chủ yểu mệnh, có Giáp xuất can thì quý, nhưng không có Canh chế mới tốt.

Chỗ này kể ra câu nói ý nghĩa rất mờ mịt, bản sao làm mất đi chỗ tạo ra chìa khóa cơ bản, kèm theo ở phần cuối, Tỉ Kiếp quá nặng, chính là cần dụng thủy tiết tú, mà Nhâm Quý kém nhược thì chủ là mệnh yểu, nguyệt lệnh Thìn thổ đang vượng, vô hình trung là phá liền thành thủy nhược vậy, có Giáp xuất can chế thổ thì quý, thấy Canh phá Giáp, cũng không có giống Giáp, cho nên lấy không có Canh chế mới tốt.

Quý Sửu, Bính Thìn, Tân Hợi, Mậu Tý
Càn Long năm thứ 15, tháng 3, ngày 18, giờ Tý.
Mệnh Lạc Bỉnh Chương: Bính hỏa xuất can, hỉ có Quý thủy phá Bính giải hợp, chi tọa đất Hợi Tý Sửu, Quý thủy có lực, trong Hợi có Giáp phá Mậu, bởi vì không phải hóa khí, cho nên Mậu thổ không thành phá cách vậy, vận hành Bắc phương, đảm nhận chức Tổng đốc tỉnh Lưỡng Hồ Tứ Xuyên, là đại danh thần.

Tân Tị, Nhâm Thìn, Tân Mão, Canh Dần
Quang Tự năm thứ 7, tháng 3, ngày 29, giờ Dần.
Mệnh Hồ Bút Giang: Chi đủ Dần Mão Thìn tụ Đông phương, là Thương quan sinh Tài, Tài vượng thành phương, thân nhược trái lại lấy Thìn thổ Chính Ấn làm dụng, vận hành Mậu Tý, Kỷ Sửu, thấp thổ sinh kim, do nghề nghiệp tiền tệ mà đến với Ngân hàng, thánh giới lĩnh tụ nhân vật lưu thông Tài chính, Dân Quốc năm Mậu Dần đầu mùa Thu, ngồi máy bay gặp tập kích, bỏ mạng mà chết, giờ gặp Bính hỏa ở trường sinh, là Tài vượng sinh Quan, có 8 người con, có một mệnh Luật sư, năm tháng ngày giống nhau, sinh giờ Kỷ Sửu, Kỷ thổ xuất can, là Ấn vượng dụng Tài, cả hai tạo đều lấy Nhâm thủy xuất can, cho nên đều có danh trong xã hội, Bính hỏa tời Sửu là ngôi Dưỡng, suy tuyệt, về sau được một con.

Quý Tị, Bính Thìn, Tân Mão, Quý Tị
Mệnh Vũ Đình Lân: 2 Quý xuất can phá Bính, là Tổng lĩnh sư đoàn.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Tứ nguyệt Tân kim (Tháng 4, Tỵ, Lập Hạ)

Tháng 4 mùa gặp mùa Hạ, kỵ Bính sáng rực, vui mừng gặp thấp thủy.

Ba tháng mùa Hạ nguyệt lệnh đều có thổ, thấy thủy nhuận thổ, công thành phản sinh. Tân kim tự vượng, không có thủy, là Hỏa vượng thổ táo, thể chất sợ nhược, hỏa ngăn cách ở thổ, hỏa vượng tuy không nấu chảy kim, thổ táo khô cũng không sinh kim vậy, kỵ hiện ra rực cháy thì không có luận vậy, vui mừng có thấp thủy để chế hỏa mà nhuận thổ, là có thể kim tồn tại vậy, lại cần chi thành kim cục, hoặc chi sinh vượng có Canh kim trợ giúp (xem ở dưới) cho nên tháng 4 Tân kim, nhất định hỉ có Canh Nhâm làm dụng, Giáp mộc là dược khứ bệnh vậy.

Được chi có kim cục, Nhâm thủy xuất can, lại có Giáp xuất ra phá Mậu, gọi là Nhất thanh triệt để (một nền trong suốt), khoa bảng đứng đầu quý không nghi ngờ. Quý thấu Nhâm tàng, là chân phú mà giả quý, Nhâm Quý đều tàng, Mậu Kỷ cũng tàng, hơi có phú, nếu Nhâm Quý đều không có, nhưng thấy hỏa công mãnh liệt, là tăng đạo bần tiện. Giáp xuất ra chế Mậu, có thể chủ có y lộc.

Tháng 4 Tân kim, cùng Canh kim hơi giống nhau, tuy gặp đất trường sinh, là chỗ hỏa áp bức, thể chất sợ nhược, thấy hỏa là bệnh, thấy thổ cũng là bệnh, tốt nhất là thấy chi có Dậu Sửu hội thành kim cục (Thấy Sửu là thấp thổ thì sinh kim càng tốt) Tân kim tức là chuyển nhược thành cường (xem thêm tiết tháng 4 Canh kim).

Tân kim hỉ Nhâm thủy làm dụng, cùng Canh kim là khác nhau, thấy Nhâm thủy xuất can, lại có Giáp chế Mậu, so với Kim thủy nhất thanh triệt để, tự thành mệnh phú quý. Quý thấu Nhâm tàng, đều nhận ở trên chi thành kim cục mà luận, Tân kim là nhu nhược, sinh ở tháng 4, duy có chi thành kim cục, cũng không thể không có thủy vậy, như Nhâm Quý thủy đều không có, nhưng thấy hỏa công mãnh liệt, thì kim bị hỏa nấu chảy, là mệnh bần tiện tàn tật, mộc hỏa luyện kim là dương kim, không phải Tân kim vậy, Giáp xuất chế Mậu, tiếp ở trên kim cục mà nói, Giáp mộc là Tài, cho nên nói có thể chủ có y lộc, không có thủy tóm lại là không phải tạo mệnnh tốt, do Giáp mộc không có thủy thì không thể chế Mậu, trái lại là sinh hỏa vậy, xem ở dưới.

Hoặc chi thành hỏa cục, mộc cục, đều là hạ cách, có chế thì cát, không có chế thì hung, phàm hỏa vượng không có thủy, lấy thổ tiết.

Tị cung có Bính Mậu đồng cung, chi thành hỏa cục, mộc cục, sinh mà không sinh, tòng mà không tòng, duy có lấy Canh Nhâm để giải cứu, cho nên nói: có chế thì cát, không chế thì hung, hỏa vượng không có thủy, mà bất đắc dĩ phải dụng thổ tiết khí hỏa, nói là dụng thần nhiều thì nên tiết là vậy, sau khó tránh khỏi chết yểu cô bần, cũng không phải là thượng mệnh (xem thêm ở tiết tháng 5 Canh kim).

Hoặc có Nhâm thủy tàng ở chi Hợi, không thấy Mậu xuất ra, thì hiển đạt làm quan, thấy Mậu thì là thường nhân. Có một Giáp thấu, có thể cầu y lộc. Không có Mậu, có Nhâm Quý xuất can, chủ phú, là khác đường có thể được. Hoặc có Giáp không có Nhâm Quý thì phú không thành thực, quý không thành danh. Nhâm Quý Giáp đều không có, là hạ cách.

Chỗ này nói chi không có kim cục vậy. Tháng 4 Tân kim, không thể không có thủy, Nhâm Quý xuất can, là chủ phú quý theo con đường khác. Nhâm tàng ở Hợi Thân, chủ đường quan hiển đạt, nhưng kỵ Mậu xuất chế thủy, thấy Mậu xuất can, nhất định cần Giáp mộc trợ cứu, mới có thể cầu y lộc. Giáp mộc cũng dựa vào Nhâm Quý phá hỏa, mới có thể chế Mậu thổ, nếu không, trái lại trợ cho hỏa vượng mà thôi, tuy thấy Tài Quan lưỡng vượng, mà phú quý đều không, chỉ có chất là Dê Cừu mà da là Hổ thì là trách móc vậy. Tháng 4 Tân kim, Tòng Sát cũng không phải tốt, là do nguyệt lệnh là Mậu thổ, Chính Ấn đang vượng, Canh kim ở trường sinh, không có căn mà có căn, khí mệnh không thể lấy tòng (xem ở dưới tháng 5).

Giáp Ngọ, Kỷ Tị, Tân Mùi, Canh Dần
Mệnh cô bần.
Ghi chú: Tạo này có Canh kim xuất can để trợ giúp, có Kỷ thổ sinh, nhưng hỏa vượng không có thủy, không có khả năng phát sinh, là hạ cách.

Ất Mùi, Tân Tị, Tân Hợi, Ất Mùi
Cả hai phức tạp, nhưng không phải thời mà thôi, tài phong phú.
Ghi chú: Tạo này lấy Hợi cung có Nhâm thủy, chỗ gọi là đường quan hiển đạt vậy.

Quý Mão, Đinh Tị, Tân Dậu, Mậu Tý
Quang Tự năm thứ 29, tháng 5, ngày 7, giờ Tý.
Mệnh Thang Văn Tảo: Tân Dậu là chuyên lộc, Tị Dậu hội cục, lại thêm Lục âm Triều dương, Quý thủy đắc lộc, là nhuận thổ sinh kim, Tân kim phản nhược thành vượng, dụng Đinh hỏa Thiên Quan, có Mão mộc sinh, Tài sinh Thất Sát, cho nên quý ở vũ chức, Ất Mão, Giáp Dần vận, Nhâm vận vận chuyển nắm lệnh, là Thiếu tướng Lục Quân.

Bính Tuất, Quý Tị, Tân Tị, Canh Dần
Quang Tự năm thứ 12, tháng 4, ngày 18, giờ Dần.
Mệnh Trử Ngọc Phác: Bính hỏa thái vượng, chuyên dụng Quý thủy phá Bính, hỉ được Canh kim sinh trợ, vận tới Thân Dậu, khởi gặp cây cỏ rậm rạo mà vây khốn. Mậu vận khứ Quý, mạng vong.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Ngũ nguyệt Tân kim (Tháng 5, Ngọ, Mang Chủng)

Tháng 5 Đinh hỏa nắm quyền, Tân kim mất lệnh, âm rất nhu nhược, không nên nung luyện, cần Kỷ Nhâm kiêm dụng, là sao vậy? Kỷ là nê sa (bùn cát), Nhâm là hồ hải (biển hồ), Kỷ không có Nhâm thì không ẩm ướt, Tân không có Kỷ thì vô sinh, cho nên Nhâm Kỷ là cùng dụng, không có Nhâm, Quý cũng có thể dụng, nhưng lực Quý nhỏ.

Tân kim nhu nhược, không thể không có Ấn, tháng 3, 4 Mậu thổ đang vượng, sợ thổ trọng vùi kim, cho nên lấy làm kỵ, tháng 5 Kỷ thổ thì không kỵ, nhưng giữa mùa Hạ mùa hỏa vượng, thổ táo khô không thể sinh kim, nhất định cần kiêm dụng Nhâm thủy, dụng Nhâm để nhuận thổ, do đó thành công phản sinh, không lấy tiết tú Tân kim, cho nên Nhâm Kỷ không kiêm dụng vậy (lấy kim thủy khí thanh là kỵ Kỷ thổ hỗn trọc, lấy thủ phản sinh là lợi dụng kỳ hỗn trọc). Không có Nhâm dụng Quý, nhưng lực suy nhược mà thôi.

Nếu biến thành hỏa cục, tuy có 3 Quý xuất can, khó cứu hỏa ở xe củi, tức là cư ở trên Lang Miếu (cung vua), không chết ở tên Mậu, như Nhâm xuất ra kiêm có Quý phá hỏa, tuy là tiến cử giám sát sinh viên, có tài mưu lược lớn. Không có Nhâm phá hỏa, Quý thủy xuất can, thấy Mậu hợp, tuy Ngọ trong có Kỷ, gọi là táo nê thành hôi ( bùn khô thành tro bụi), Tân kim cũng nhất định bị nấu chảy, định là thầy làm Tăng đạo, có 1, 2 Tỉ kiên nặng, không đến nỗi là cô độc.

Tiếp ở trên, Quý thủy lực nhỏ mà nói, hội cục lấy Tý Ngọ Mão Dậu là trung tâm, tháng 5 thấy Ngọ, thấy Dần Tuất tức là lưu luyến hỏa cục, tuy có Quý thủy trọng xuất, phối hợp được tốt, quý ở nơi Lang Miếu, Tài cũng bình thường hèn yếu, không đủ thành quý, được Nhâm là cứu, tuy phối hợp có thiếu, chỉ là một giám sát sinh viên, cũng có tài thao lược, nói đạt tới chi thành hỏa cục, không phải Nhâm thủy không thể là cứu vậy.

Canh kim hỏa vượng không có thủy, lấy thổ tiết thì Tân kim sợ nhược, tuy Ngọ cung có Kỷ thổ, cũng nhất định bị nấu chảy, không phải tàn tật chết yểu cũng là thầy tăng đạo, chính là tượng hỏa vượng kim dong vậy, có 1, 2 Tỉ Kiếp nặng, cũng là sinh mà không sinh, bất quá tránh khỏi cô độc mà thôi.

Tóm lại, tháng 5 Tân kim, Nhâm Quý Kỷ cả 3 đều dụng, không thể thiếu 1, Nhâm Kỷ Bính thấu, chi tàng Tý Quý, không xung, là khoa bảng, lại chủ quyền cao quý hiển, tức Nhâm tàng Quý thấu, không thiếu tiến cử làm giám sát sinh viên, hoặc không có Nhâm mà có Kỷ Quý, chủ đường khác mà có, hoặc Quý thấy Canh kim, lộc đầy Hoàng Gia, tuy khác đường cũng hiển, như thổ nhiều thấy thủy, dụng Giáp thì cát.

Tháng 5 Tân kim, lấy Nhâm Kỷ cùng thấu, chi tàng Quý thủy, là đứng đầu thượng cách, Ngọ cung tự có Kỷ thổ, thấy Nhâm Quý đều không thiếu công danh, Quý thủy tuy sợ lực yếu, như được Canh kim sinh trợ, thì dòng chảy không dứt, lực dụng tự tăng thêm, cũng nhất định hiển lộ ở con đường khác, như đất nhất định cần có nước, mới có thể Giáp phá thổ, không có thủy thì mộc trợ hỏa vượng, không thể chế thổ, mà trái lại sinh thổ vậy, chỗ này nhất định cần chú ý vậy.

Canh Tân sinh ở tháng mùa Hạ, cần Nhâm Quý đắc địa, nếu mộc nhiều hỏa nhiều, không thấy kim thủy, gặp kim thủy vận nhất định là bại.

Tổng luận lý lẽ Canh Tân sinh mùa Hạ, bản sao chép bỏ mất chỗ tạo ra chìa khóa căn bản, đặc biệt kèm theo, đắc địa là tới đất Hợi Tý Sửu vậy, tháng mùa Hạ thủy cụng bị hưu tù, không đắc địa nhất định bị nấu khô cạn, không thể dụng vậy, (thủy lấy kim làm gốc, lấy Thân làm gốc, lấy Hợi Tý Sửu Bắc phương là đắc địa) mộc nhiều hỏa nhiều, không thấy kim thủy, tự có thể Tòng Sát, không hiểu Ngọ cung có Kỷ thổ đắc lộc, tuy là táo thổ không sinh, mà có ý có tương sinh, vận Tòng Cách gặp thấy gốc, bất quá là không thuận lợi, mà tháng mùa Hạ Tân kim Tòng Sát, vận khó lấy mà tòng luận, vận hành kim thủy, thủy hỏa tương kích, nhất định khởi họa bất trắc, như một tạo:

Đinh Mùi, Bính Ngọ, Tân Mão, Giáp Ngọ
Quý vận năm Nhâm Thân gặp 12 năm khó khăn do chiến tranh ở Thượng Hải, đại khái thấy kim vẫn còn có thể, thấy thủy là càng kỵ vậy.

Bính Tý, Giáp Ngọ, Tân Hợi, Nhâm Thìn
Dụng Ngọ cung Kỷ thổ, lại thấu Nhâm Giáp, là quan Lang Trung.

Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Tân Dậu, Mậu Tuất
Nhâm thủy xuất can, lại bị Mậu thổ phá khứ, trong chi có hỏa cục trước tiên là táo khô, cho nên là thầy giáo, mà cô đơn.
Lấy tạo trên làm chìa khóa cơ bản.

descriptionLuận KIM EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết