Lục nguyệt Tân kim (Tháng 6, Mùi, Tiểu Thử)
Tháng 6 Kỷ thổ nắm quyền, sinh phù thái quá, sợ làm dơ bẩn kim không đẹp, chuyên dụng Nhâm thủy là tốt, sau lấy Canh kim phụ tá.
Tháng 6 Tân kim, trên dưới nửa tháng là khác nhau, cùng Canh kim luận như nhau, Kỷ thổ thừa quyền, không vượng không nhược, lấy Nhâm thủy quét rửa sạch, phụ tá lấy Canh kim thì hiển, Kỷ thổ Mậu vượng, thổ trọng có lo vùi kim, kim dơ bẩn không tốt, khí kim không có ánh sáng vậy (xem ở dưới).
Nhâm Canh lưỡng thấu, Khoa giáp quý hiển, dù có cả hai tàng đắc địa phùng sinh, cũng chủ đại phú quý, tức là không phải Khoa giáp, mà ân phong cũng có, nhưng kỵ Mậu Kỷ xuất can, được Giáp cách ngôi chế, cũng chủ phú quý. Giáp không cách, trái lại cùng Kỷ tham hợp hóa thổ, là thổ mai ô kim, hỗn tạp bế tắc Nhâm thủy, định là chủ bần tiện, cho nên Quý Giáp xuất ra chế độc, lại lo Canh xuất ra chế Giáp, cũng chủ bần tiện. Nhâm Canh lưỡng tàng đắc địa phùng sinh là chi thấy Thân Hợi vậy, gọi là táo thổ, Nhâm thủy không chỉ tiết kim hiển kim, mà còn có nhuận sinh kim bổ ích.
Tân kim sinh tháng Mùi, không vượng không nhược, thấy Nhâm Canh thì Tân kim hiển kỳ xinh đẹp mà linh hoạt, cho nên không luận tàng hay thấu, đều chủ phú quý. Mậu Kỷ nên tàng không nên thấu, thấu thì có chôn kim thì lo sợ Nhâm, hai chữ Mậu Kỷ, lại cần luận phân biệt. Mậu xuất ra thấy Giáp, tức có thể cứu, Kỷ xuất ra thấy Giáp, nhất định cần cách ngôi, nếu không, Giáp mộc tham hợp, không thể khắc Kỷ, trái lại là tòng Kỷ hóa thổ, vô ích mà trái lại là hại vậy, dụng Giáp chế thổ, lại kỵ Canh kim khắc Giáp, cũng là hạ cách, tóm lại, tháng 6 Tân kim, không nên thấy thấu Mậu Kỷ, chuyên dụng Nhâm Canh là quý, có Mậu Kỷ xuất can, thì cần bên cạnh cứu hộ, cấm kỵ nhiều loại, phối hợp khó được thích nghi vậy.
Hoặc chỉ có Mùi trong có 1 Kỷ, kết thúc thấy Nhâm thủy, thì là thấp nê, không thể thấy Giáp, Giáp xuất ra trái lại là người bình thường, hợp lại lấy một Nhâm một Kỷ, thấy Canh không có Giáp, mới tốt, cùng tháng 5 dụng Kỷ Nhâm là giống nhau.
Tiếp đoạn văn ở trên, Mậu Kỷ xuất can, cần Giáp để cứu mà nói, Tân kim yếu đuối, gốc không thể không có Kỷ tương sinh, nếu chỉ có Mùi trong có một Kỷ, không nhất định khắc chế, tháng 5, 6 Tân kim, vốn chỉ là một lý mà suy ra vậy.
Hoặc tứ trụ có Đinh Kỷ xuất can, có Thân trong có Nhâm thủy, trong Mùi có Kỷ thổ, can lại thấu Canh, khoa giáp quan hiển, không có Nhâm là bần tiện.
Ba tháng mùa Hạ Tân kim, vốn là lấy Nhâm Quý là quan kiện, Đinh Kỷ xuất can, táo nê thành bụi, lại không thể không có Nhâm, cho nên nói không có Nhâm là bần tiện.
Hoặc chi thành mộc cục, đơn độc Nhâm không quý, cần được Canh kim phát sinh gốc Nhâm thủy, là chủ quý trong lấy phú, phú trong lấy quý.
Chi thành mộc cục, Tài vượng thành phương cục là phú cách, nhưng tứ trụ cần có Canh kim Tỉ trợ giúp, có thủy nhuận thổ sinh kim thân vượng có thể gánh nỗi Tài, mới có thể nói phú, thấu Nhâm Canh mà không có Mậu Kỷ, thì phú trong thủ quý, Mùi là mộc mộ, thấy Hợi Mão hội cục, trong Hợi tự có Nhâm thủy, cho nên nói đơn độc Nhâm không quý cần có Canh kim sinh, Tân kim nhu nhược, được Canh là trợ giúp, lực có thể gánh nỗi Tài, sinh Nhâm chế mộc trợ thân, một mà có ba dụng, là tự nhiên thủ quý.
Tóm lại, dụng Giáp chế thổ, kỵ hợp kỵ Canh, dụng hai chữ Kỷ Nhâm, thấy Canh lại kỵ hỏa phá Canh, kỵ Giáp chế Kỷ, cần tinh tế mà suy.
Nhâm Thìn, Đinh Mùi, Tân Sửu, Giáp Ngọ
Đinh Nhâm lưỡng thấu, mệnh đại quý.
Ghi chú: Tạo này tốt ở Tân kim tọa Sửu mà không nhược, Đinh Nhâm tương hợp, chuyên dụng Ngọ cung Đinh hỏa, là một mệnh tạo Lang Trung (thầy lang).
Giáp Dần, Tân Mùi, Tân Mùi, Đinh Dậu
Thiếu thủy, cho nên cô khổ.
Ghi chú: Tạo này tuy có giờ gặp Quy Lộc, mà không có thủy nhuận thổ, là mệnh thiên khô vậy.
Nhâm Thân, Đinh Mùi, Tân Tị, Mậu Tý
Đồng Trị năm thứ 11, tháng 6, ngày 28, giờ Tý.
Mệnh vua nhà Thanh, Đức Tông hoàng đế (vua Quang Tự): phủ lên bề ngoài là Đồng Trị năm thứ 10, năm Tân Mùi, tháng 6, ngày 28, giờ Tý, chủ nhân cho biết là tự nhận làm trái tầng mặt trời. Thực ra là sinh ở năm thứ 11, tháng 6, ngày 28, giờ Tý, thuộc con Khỉ, sợ người cười mà thành con vượn đội mũ, đặc biệt là tăng thêm một năm, tháng ngày giờ là không đổi, tạo này được Nhâm thủy xuất can chế Đinh, hỉ thần ở trụ năm, là bày ra tổ ấm thượng thừa. Mậu thổ xuất can, vùi kim mà phá Nhâm, mà cứu hộ Đinh hỏa kỵ thần, là do Từ Hi áp bức, ở trên che chỡ mà được khánh vinh. Đinh Nhâm hợp, hỉ kỵ quấn quít khó hiểu, cũng tự nhờ ở trên ban phước che chỡ, cùng với cảnh ngộ là tương hợp, tự là tạo chân xác, kỵ Ấn mà không thể không dụng Ấn, vận tới Hợi vận tạ thế, năm 37 tuổi, tại vị 34 năm.
Tân Mão, Ất Mùi, Tân Dậu, Canh Dần
Quang Tự năm thứ 17, tháng 6, ngày 29, giờ Dần.
Mệnh Trương Tích Lộ: Đoạn văn ở trên nói chi thành mộc cục, đơn độc chỉ có Nhâm là không quý, cần được Canh kim, tạo này đơn độc có Canh không có Nhâm, cũng không lấy quý, gọi là không có Nhâm thì bần tiện vậy, thân vượng gánh nỗi tài, cho nên là cự phú, kim mộc đối xung, dựa vào thủy thông quan, sinh ở tháng 6, càng không thể không có thủy vậy.
Quý Mão, Kỷ Mùi, Tân Hợi, Mậu Tý
Quang Tự năm thứ 29, tháng 5, ngày 28, giờ Tý.
Chi thành mộc cục, Quý thấu Nhâm tàng, tiếc là Mậu Kỷ cùng thấu mà không có Canh kim, cho nên chỉ là mệnh Ngân Hàng gia, phú mà không quý vậy.