KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Luận KIM

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Lục nguyệt Tân kim (Tháng 6, Mùi, Tiểu Thử)

Tháng 6 Kỷ thổ nắm quyền, sinh phù thái quá, sợ làm dơ bẩn kim không đẹp, chuyên dụng Nhâm thủy là tốt, sau lấy Canh kim phụ tá.

Tháng 6 Tân kim, trên dưới nửa tháng là khác nhau, cùng Canh kim luận như nhau, Kỷ thổ thừa quyền, không vượng không nhược, lấy Nhâm thủy quét rửa sạch, phụ tá lấy Canh kim thì hiển, Kỷ thổ Mậu vượng, thổ trọng có lo vùi kim, kim dơ bẩn không tốt, khí kim không có ánh sáng vậy (xem ở dưới).

Nhâm Canh lưỡng thấu, Khoa giáp quý hiển, dù có cả hai tàng đắc địa phùng sinh, cũng chủ đại phú quý, tức là không phải Khoa giáp, mà ân phong cũng có, nhưng kỵ Mậu Kỷ xuất can, được Giáp cách ngôi chế, cũng chủ phú quý. Giáp không cách, trái lại cùng Kỷ tham hợp hóa thổ, là thổ mai ô kim, hỗn tạp bế tắc Nhâm thủy, định là chủ bần tiện, cho nên Quý Giáp xuất ra chế độc, lại lo Canh xuất ra chế Giáp, cũng chủ bần tiện. Nhâm Canh lưỡng tàng đắc địa phùng sinh là chi thấy Thân Hợi vậy, gọi là táo thổ, Nhâm thủy không chỉ tiết kim hiển kim, mà còn có nhuận sinh kim bổ ích.

Tân kim sinh tháng Mùi, không vượng không nhược, thấy Nhâm Canh thì Tân kim hiển kỳ xinh đẹp mà linh hoạt, cho nên không luận tàng hay thấu, đều chủ phú quý. Mậu Kỷ nên tàng không nên thấu, thấu thì có chôn kim thì lo sợ Nhâm, hai chữ Mậu Kỷ, lại cần luận phân biệt. Mậu xuất ra thấy Giáp, tức có thể cứu, Kỷ xuất ra thấy Giáp, nhất định cần cách ngôi, nếu không, Giáp mộc tham hợp, không thể khắc Kỷ, trái lại là tòng Kỷ hóa thổ, vô ích mà trái lại là hại vậy, dụng Giáp chế thổ, lại kỵ Canh kim khắc Giáp, cũng là hạ cách, tóm lại, tháng 6 Tân kim, không nên thấy thấu Mậu Kỷ, chuyên dụng Nhâm Canh là quý, có Mậu Kỷ xuất can, thì cần bên cạnh cứu hộ, cấm kỵ nhiều loại, phối hợp khó được thích nghi vậy.

Hoặc chỉ có Mùi trong có 1 Kỷ, kết thúc thấy Nhâm thủy, thì là thấp nê, không thể thấy Giáp, Giáp xuất ra trái lại là người bình thường, hợp lại lấy một Nhâm một Kỷ, thấy Canh không có Giáp, mới tốt, cùng tháng 5 dụng Kỷ Nhâm là giống nhau.

Tiếp đoạn văn ở trên, Mậu Kỷ xuất can, cần Giáp để cứu mà nói, Tân kim yếu đuối, gốc không thể không có Kỷ tương sinh, nếu chỉ có Mùi trong có một Kỷ, không nhất định khắc chế, tháng 5, 6 Tân kim, vốn chỉ là một lý mà suy ra vậy.

Hoặc tứ trụ có Đinh Kỷ xuất can, có Thân trong có Nhâm thủy, trong Mùi có Kỷ thổ, can lại thấu Canh, khoa giáp quan hiển, không có Nhâm là bần tiện.

Ba tháng mùa Hạ Tân kim, vốn là lấy Nhâm Quý là quan kiện, Đinh Kỷ xuất can, táo nê thành bụi, lại không thể không có Nhâm, cho nên nói không có Nhâm là bần tiện.

Hoặc chi thành mộc cục, đơn độc Nhâm không quý, cần được Canh kim phát sinh gốc Nhâm thủy, là chủ quý trong lấy phú, phú trong lấy quý.

Chi thành mộc cục, Tài vượng thành phương cục là phú cách, nhưng tứ trụ cần có Canh kim Tỉ trợ giúp, có thủy nhuận thổ sinh kim thân vượng có thể gánh nỗi Tài, mới có thể nói phú, thấu Nhâm Canh mà không có Mậu Kỷ, thì phú trong thủ quý, Mùi là mộc mộ, thấy Hợi Mão hội cục, trong Hợi tự có Nhâm thủy, cho nên nói đơn độc Nhâm không quý cần có Canh kim sinh, Tân kim nhu nhược, được Canh là trợ giúp, lực có thể gánh nỗi Tài, sinh Nhâm chế mộc trợ thân, một mà có ba dụng, là tự nhiên thủ quý.

Tóm lại, dụng Giáp chế thổ, kỵ hợp kỵ Canh, dụng hai chữ Kỷ Nhâm, thấy Canh lại kỵ hỏa phá Canh, kỵ Giáp chế Kỷ, cần tinh tế mà suy.

Nhâm Thìn, Đinh Mùi, Tân Sửu, Giáp Ngọ
Đinh Nhâm lưỡng thấu, mệnh đại quý.
Ghi chú: Tạo này tốt ở Tân kim tọa Sửu mà không nhược, Đinh Nhâm tương hợp, chuyên dụng Ngọ cung Đinh hỏa, là một mệnh tạo Lang Trung (thầy lang).

Giáp Dần, Tân Mùi, Tân Mùi, Đinh Dậu
Thiếu thủy, cho nên cô khổ.
Ghi chú: Tạo này tuy có giờ gặp Quy Lộc, mà không có thủy nhuận thổ, là mệnh thiên khô vậy.

Nhâm Thân, Đinh Mùi, Tân Tị, Mậu Tý
Đồng Trị năm thứ 11, tháng 6, ngày 28, giờ Tý.
Mệnh vua nhà Thanh, Đức Tông hoàng đế (vua Quang Tự): phủ lên bề ngoài là Đồng Trị năm thứ 10, năm Tân Mùi, tháng 6, ngày 28, giờ Tý, chủ nhân cho biết là tự nhận làm trái tầng mặt trời. Thực ra là sinh ở năm thứ 11, tháng 6, ngày 28, giờ Tý, thuộc con Khỉ, sợ người cười mà thành con vượn đội mũ, đặc biệt là tăng thêm một năm, tháng ngày giờ là không đổi, tạo này được Nhâm thủy xuất can chế Đinh, hỉ thần ở trụ năm, là bày ra tổ ấm thượng thừa. Mậu thổ xuất can, vùi kim mà phá Nhâm, mà cứu hộ Đinh hỏa kỵ thần, là do Từ Hi áp bức, ở trên che chỡ mà được khánh vinh. Đinh Nhâm hợp, hỉ kỵ quấn quít khó hiểu, cũng tự nhờ ở trên ban phước che chỡ, cùng với cảnh ngộ là tương hợp, tự là tạo chân xác, kỵ Ấn mà không thể không dụng Ấn, vận tới Hợi vận tạ thế, năm 37 tuổi, tại vị 34 năm.

Tân Mão, Ất Mùi, Tân Dậu, Canh Dần
Quang Tự năm thứ 17, tháng 6, ngày 29, giờ Dần.
Mệnh Trương Tích Lộ: Đoạn văn ở trên nói chi thành mộc cục, đơn độc chỉ có Nhâm là không quý, cần được Canh kim, tạo này đơn độc có Canh không có Nhâm, cũng không lấy quý, gọi là không có Nhâm thì bần tiện vậy, thân vượng gánh nỗi tài, cho nên là cự phú, kim mộc đối xung, dựa vào thủy thông quan, sinh ở tháng 6, càng không thể không có thủy vậy.

Quý Mão, Kỷ Mùi, Tân Hợi, Mậu Tý
Quang Tự năm thứ 29, tháng 5, ngày 28, giờ Tý.
Chi thành mộc cục, Quý thấu Nhâm tàng, tiếc là Mậu Kỷ cùng thấu mà không có Canh kim, cho nên chỉ là mệnh Ngân Hàng gia, phú mà không quý vậy.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thất nguyệt Tân kim (Tháng 7, Thân, Lập Thu)

Tháng 7 Tân kim, gặp Canh nắm lệnh, không vượng cũng tự vượng, mà Thân tự nhiên có Nhâm thủy, tứ trụ không gặp Mậu thổ thấu, thai nguyên cũng không có Mậu chế, duy có Thân trong có một Mậu, thành đê điều ngăm Nhâm, hợp chỗ này là hiển đạt thanh quý, nhưng là quan thanh liêm, quý mà không phú, không nên lấy Quý làm dụng.

Thân cung có Canh kim trường sinh, Tân tuy suy nhược, khí chuyển sinh vượng, cùng đằng la phồn giáp (Giáp ví như cây Đằng là loài dây leo mọc chằn chịt) ý giống nhau, cho nên nói không vượng mà vẫn tự vượng. Lại là Thân có Nhâm thủy sinh địa, tự nhiên tiết tú kim, là kim thủy thương quan lấy thanh, kỵ thấy Mậu thổ, là tháng thành Mậu trong Thân cung, khí tiết ở Canh, không thấu xuất can, không đủ lấy trở ngại thủy, hợp chỗ này thì tự nhiên hiển đạt.

Phép xưa lấy năm mệnh thiên can địa chi cùng nạp âm làm Tam Mệnh, can là Lộc, chi là Mệnh, nạp âm là thân, Thai Nguyệt Nhật Thời là tứ trụ (xem tường thuật ở Lý Hư Trung Mệnh Thư). Hậu nhân lấy Niên Nguyệt Nhật Thời làm tứ trụ, mà không trọng Thai Nguyên, cái phần tháng cha mẹ mang thai, mỗi khi không biết, bình thường đối chiếu 10 tháng mà suy ra tính toán, hoặc nghiệm hoặc không nghiệm, chỉ có thể cung cấp tham khảo mà dụng, mà không thể cùng tháng ngày giờ cùng luận cát hung vậy, chỗ này là nói Thai Nguyên cũng không có Mậu chế, có thể thấy chỗ quan trọng, không thể không chú ý vậy.

Không nên lấy Quý là dụng là nói Thân cung có Nhâm thủy trường sinh, thấy Quý thủy cũng cần lấy Nhâm thủy xem, không lấy Quý thủy dụng vậy. Tóm lại, can âm tới can dương là đất lâm quan, khí chuyển thành dương, không lấy can âm luận, bên trong giống mà không giống, lhông giống mà lý thì giống, nên tinh tế phân biệt.

Hoặc có thổ xuất can, không có Giáp, là có bệnh không có dược, là nhân vật tầm thường, có Mậu lại có Giáp, nhất định chủ có y lộc.

Tháng 7 kim thủy thế lực cùng hành, nhưng Tân kim dụng Nhâm, lấy kỳ tiết tú mà nói, cho nên thủy cần ít mà không cần nhiều, nếu chỉ có Thân cung Nhâm thủy, thì không cần thấy Mậu thổ chế, có Mậu cần có Giáp bổ cứu, không có Giáp là có bệnh mà không có dược vậy, lấy ở trên nói dụng Thân cung có Nhâm thủy, Nhâm không xuất ra can, không nên thấu Mậu thổ vậy.

Hoặc tứ trụ được Canh, Canh lại đắc địa, cấp thiết cần Nhâm để tiết.

Thân cung là Canh kim lâm quan, cho nên nói Canh lại đắc địa, nếu trụ thấy Canh kim, cấp thiết cần có Nhâm thủy xuất can để tiết, tàng ở Thân cung chưa đủ để nói tiết, chỗ gọi là Cường kim đắc thủy phương tỏa kỳ phong.

Canh kim sinh tháng 7, hỉ Đinh hỏa nung luyện, Tân kim sinh tháng 7, tuy có Canh kim là trợ giúp, vẫn cần tiết không nên khắc, chỗ này là tính chất đặc thù của can âm dương vậy.

Hoặc một lúc có kim thủy, được một vị Mậu thổ, chủ có phú quý, nhưng không cần Giáp chế, hoặc một lúc có Nhâm Canh Quý Tân, không có Mậu xuất can là thường nhân, hoặc Nhâm Quý thấy nhiều, can chi cũng có ba Mậu thổ nặng, là phùng sinh tọa thực, là người phú quý.

Tân kim nhu nhược, như chi thành thủy cục, Nhâm Quý thấy nhiều, là biến cục kim thủy Thương quan, được một vị Mậu thổ, như Nhâm thủy mênh mông, dụng Tài Quan vậy, Phùng sinh là chi thấy chữ Dần vậy, Mậu thổ phụ hỏa sinh Dần, phụ thủy xuất ra Thân, Mậu ở Thân cung, là Thủy đa thổ đãng (Thủy nhiều thì thổ bị quét sạch), không thể làm dụng, Tọa thực là nói chi thấy Tuất Mùi, hoặc Tị Ngọ vậy, thổ được hỏa mà đầy, mới có thể chế thủy mệnh mông vậy.

Tóm lại, tháng 7 Tân kim, Nhâm ít là phú, Sách nói: Thủy ít kim nhiều, hào viết là tượng bản thân đầy đủ, Nhâm thủy là chủ, Mậu Giáp cân nhắc mà dụng, Bính Đinh cuối cùng không cần lấy dụng thần.

Tổng kết đoạn văn ở trên, tháng 7 Tân kim dụng Nhâm thủy, nên ít mà không nên nhiều, Mậu Giáp là ứng bệnh dược, thủy nhiều dụng Mậu, thủy ít thấy Mậu, lấy Giáp là chế, đều không được chỗ dụng pháp vậy.

Mậu Ngọ, Canh Thân, Tân Mão, Mậu Tý
Tú tài, địa vị là Tổng binh.

Mậu Ngọ, Canh Thân, Tân Mão, Kỷ Hợi
Dụng Mậu sinh thân, vận gặp Tài địa, là Tham Tài phôi Ấn mà chết.
Ghi chú: Hai tạo này thủy ít mà thấy Mậu, đều không phải là mệnh tốt, tạo sau có Hợi Mão hội cục, Tài tinh vốn vượng, lại hành Tài địa, thì phá Ấn vậy.

Giáp Dần, Nhâm Thân, Tân Mão, Nhâm Thìn
Sinh viên.

Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Tân Mão, Quý Tị
Nhâm Giáp lưỡng thấu, là Nhà văn.
Ghi chú: Hai tạo này, đều không có Canh mà thấu Nhâm, tạo sau hỉ trụ giờ thấy Quý Tị, Mậu thổ tọa đầy, ám chế Nhâm thủy, không gặp Giáp khắc, cho nên nhập vào nhà văn.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Bát nguyệt Tân kim (Tháng 8, Dậu, Bạch Lộ)

Tháng 8 Tân kim nắm quyền, đắc lệnh, là rất vượng vậy, chuyên dụng Nhâm thủy tiết nghịch là quý, cho nên nói kim thấy thủy là lưu thông.

Hai tháng 7, 8, cùng là khí kim mùa rất vượng, Thân vượt qua trước Ngọ, khí thế có tăng mà không có giảm, cho nên chính ngôi là Canh kim. Dậu vượt qua sau Ngọ, thế lực có thịnh rất khó được tiếp tục, tượng ở bên ngoài thì cao chót vót, bên trong thì khí đã hết, là chính ngôi Tân kim, cho nên dù có được mùa nắm lệnh, vẫn cần dụng nhâm thủy để tiết nghịch, khiến cho kim khí lưu thông, không nên khắc chế, lấy ức kỳ khí thanh nhẹ vậy.

Như thấy Mậu Kỷ sinh vượng, chôn vùi Tân kim, hỗn tạp bế tắc Nhâm thủy, thì cần có Giáp mộc để chế, không có Giáp liền thành có bệnh tật mà không có dược, đúng là Nhâm thấu Giáp thấu, không thấy Mậu Kỷ thấu xuất, Khoa giáp hiển quan, mà có tài lược kinh thiên động địa , như không có Mậu cũng không nhất định dụng Giáp, như có bệnh mới cần dụng dược vậy, hoặc chi tàng Mậu, lại tàng Giáp, có thể tiến cử làm quan.

Tháng Dậu mùa Tân kim cực vượng, sao lại làm nhọc công Mậu Kỷ tương sinh, kim thủy lấy kỳ lưu thông, thấy Mậu thổ bế tắc gây trở ngại, thấy Kỷ thổ thì bị đục hỗn tạp, Tân kim tuy vượng mà khí đã kiệt, Mậu Kỷ thấu thì chôn vùi ánh sáng của kim, cho nên lấy Mậu Kỷ là bệnh, nhất định cần Giáp mộc xuất cứu. Tháng 8 Tân kim, Nhâm là chính dụng, Giáp mộc là ứng bệnh có dược, nói Nhâm thấu Giáp thấu, không thấy Mậu Kỷ thấu xuất, chi có Mậu Kỷ, cho nên cần có Giáp mộc để chế, không có Mậu cũng không nhất định dụng Giáp vậy.

Hoặc tứ trụ có một điểm Tân kim, Nhâm thủy cũng có một điểm, nhưng thấy Giáp mộc tiết Nhâm, chỗ này là dụng thần không có lực, là thường nhân, mà còn gian trá đủ điều, miệng nam mô mà bụng đầy dao găm, dù có tích lũy nhiều cũng thành giàu có mà bất nhân, được Canh chế thì trái lại là chủ nhân nghĩa.

Hoặc có 1, 2 điểm Tân kim, một vị Nhâm thủy, thấy nhiều Giáp mộc, được Canh Nhâm thấu thì là đại phú quý, nhưng không nên thấy Đinh, hoặc thấy Đinh ở chi, bất quá chỉ là người thanh cao phong nhã, cơm áo đầy đủ, nhưng không có lâu dài.

Hoặc có 3, 4 Tân kim, có 1 Nhâm 1 Thân, không thấy Canh kim, nhận lộc lâu dài, dù phong thổ chưa đủ cũng không thiếu tiến cử làm giám sát sinh viên, theo con đường khác cũng có thể làm quan.

Tháng 8 Tân kim, nguyệt lệnh Kiến Lộc, thấy Nhâm là Thương quan, thì có dụng Tài dụng Kiếp khác nhau, Thương quan sinh Tài, Tài vượng cần dụng Tỉ Kiếp, một Tân một Nhâm mà thấy nhiều Giáp mộc, Tân kim đang vượng, mà khí Nhâm thủy tiết hết ở mộc, cho nên nói dụng thần không có lực, có 2, 3 Tân kim, một vị Nhâm thủy, mà thấy nhiều Giáp mộc, nhất định cần thấy Canh kim chế Giáp, mới định là phú quý.

Tân kim không có lực chế Giáp, nhất định lấy Canh kim bổ cứu, chỗ này là nói Tài nhiều cần dụng Kiếp. Nếu có 3, 4 Tân kim mà chỉ có 1 Nhâm 1 Giáp, thì không nhất định có Canh trợ giúp, thấy Canh trái lại sợ đoạt Tài, chuyên dụng Thương quan sinh Tài là vậy, không nên thấy Đinh vì Đinh cùng Nhâm hợp, ám hóa thành Tài, dụng thần bị trói buộc, thủy không lưu thông, Khí Tượng thiên nói: Vượt qua ở có tình, đạt đến không có xa, cho nên nói là không có chí hướng nhìn xa vậy.

Hoặc có một lúc Tân kim, có 1 ngôi Nhâm thủy, không có Canh tạp loạn, lại là chủ trong phú có quý, là tay trắng lập nên cơ đồ.

Một lúc thấy Tân kim, có một vị Nhâm thủy, thủy ít kim nhiều, là tượng hình thể đầy đủ vậy, chuyên dụng Thương quan, gọi là Nhất thần nhất dụng, không có Canh tạp loạn, là thủ thanh vậy, nếu Tân ít Nhâm nhiều, lại hỉ có Canh kim để trợ giúp vậy.

Hoặc Tân kim có 2, 3, Nhâm thủy có một vị, thấy nhiều Mậu thổ, thì chế Nhâm mà chôn kim, chỗ này là người ngu đần, dù có vợ con nhưng không thể thành vợ chồng, nếu thấy có 1 Giáp phá Mậu, thì là Bạch thủ thành gia (tay trắng mà lập nên cơ đồ), là người tự lập, hoặc có một lúc Nhâm thủy tiết kim, không có Mậu xuất ra chế, gọi là Sa thủy đồng lưu (cát và nước cùng chảy), chủ bần khổ bôn ba đến già, nhưng thích học nên không mất sự nghiệp nhà nho, hoặc trong chi tàng Mậu ngăn dòng chảy, là người hơi có tài mưu lược, chủ có nghệ thuật làm động lòng người, gia đình làm quan lại. Chỗ này là nói dụng Tài phá Ấn.

Tháng 8 Tân kim nắm lệnh, sao nhọc Ấn sinh, huống chi có 2, 3 Tân kim, chính là nhờ Nhâm thủy tiết tú, như thấy Mậu thổ xuất can tổn thương dụng, mà không có Giáp mộc bổ cứu, nhất định là người ngu đần. Kim Thanh Ngọc Chấn phú nói: kim thủy nhất định là thông minh, có thổ trái lại thành ngu đần là vậy.

Nếu một lúc có Nhâm thủy thái vượng, lại cần Mậu thổ đề phòng, câu ở dưới nói không có Mậu xuất ra để chế, thì e rằng thủng chảy [mà có Kỷ thổ] 4 chữ Kỷ là nê sa (Kỷ là bùn cát), theo thủy cùng chảy, không thể ngăm Nhâm thủy, đương nhiên là nước đục lẫn tạp, cho nên chủ bần khổ, tính thủy chảy tràn lan mà không có đê điều phòng thủ, cho nên là chủ bôn ba. Kim thủy Thương quan, người nhất định thông minh, cho nên thích học mà không mất sự nghiệp nhà nho vậy, chi tàng một Mậu để ngăn dòng chảy, thì có thể bổ cứu, tóm lại Kim thủy Thương quan, không nên mang theo Ấn, dụng Mậu thổ thì nhất định là do có Nhâm thủy quá nhiều, cách cục chuyển biến, giống như Nhâm thủy hỉ dụng Tài Quan vậy (xem thêm Tiết tháng 7 một lúc có kim thủy).

Hoặc can thấu 2 Tân, chi thành kim cục, tính kim nhọn cứng, không có Nhâm thủy tiết nghịch, là quá cứng mà lưu thông không được, là kẻ có kỹ năng không thuần, thích thanh cao, kim không có tú khí, cần dụng Đinh hỏa để chế, không có hỏa, nhất định là kẻ bất lương, hoặc là tăng đạo, khó tránh hung nguy, không rõ thiện ác, được một Nhâm thấu, tiết nghịch bầy kim, gọi là Nhất thanh đáo để (trong thanh đến cùng), cần văn hơn cần võ, là tài năng cho đất nước.

Tân kim không cần dụng Quan Sát, can thấu Tỉ kiên, chi thành kim cục, Tân kim thái vượng, không có Nhâm thủy, bất đắc dĩ phải dụng Đinh hỏa để chế, như thấy Nhâm thấu tiết tú kim, thì cần văn hơn cần võ, là tài năng cho đất nhước, không có Đinh Nhâm cùng thấu vậy, chỗ này là nói Tân kim dụng Quan Sát, hợp lại không phải là thượng cách.

Hoặc chi thành kim cục, Mậu Kỷ thấu can, Nhâm thấu không có hỏa, gọi là Bạch Hổ cách, vận hành Tây Bắc, không nhập Đông Nam, là phú quý phi thường. Tử tinh không nhiều, gặp hỏa vận là cô bần, hoặc giờ gặp Bính hỏa, dù có Nhâm xuất ra, cũng thuộc bình thường, là do Bính Tân hóa hợp không gặp mùa vậy, hoặc có Đinh thấu phá cục, không có Quý xuất ra chế, là bần tiện phi thường, Quý thấu chế Đinh, trước bần sau phú.

Chỗ này là nói biến cách, tháng Dậu là Tân kim mùa nắm lệnh, lại thêm chi thành kim cục, Mậu Kỷ xuất can, dù có Nhâm thấu, cũng bị thổ chế, cách thành chuyên vượng, gọi là Bạch Hổ cách, tức là Tòng Cách cách vậy. Thấy hỏa thì là phá cách, vận cần ở Tây Bắc, kỵ Đông Nam, hoặc thấy Bính hỏa, Bính Tân tương hợp, cách thành hóa khí, cũng là biến cách vậy, dù có Nhâm xuất ra, là nói giờ phùng Nhâm Thìn vậy, hóa khí thấy Thìn thì là chân hóa, nhưng không gặp mùa, cũng là người bình thường vậy, hai cách chuyên vượng và hóa khí, thấy Đinh hỏa đều là phá cách, cần Quý thủy giải cứu, có cứu thì cát, không có cứu thì hung.

Hoặc có 1, 2 Tân kim, có một lúc Kỷ thổ, là người vô danh, là tăng đạo, có Nhâm có Giáp, không tiện cũng không quý, hơi có năng lực, hoặc thấy nhiều Kỷ thổ, chi có một Giáp, thì cả đời hậu trọng, y lộc không mất, hoặc chi tàng Canh Đinh, chủ có nạp thóc mà có danh.

Vượng kim thì không cần Ấn sinh, thấy Mậu thổ dày mà nặng, thì chôn vùi kim không có ánh sáng, thấy Kỷ thổ thì thấp nê, thì làm kim dơ bẩn mà không hiển lộ, đều không phải là chỗ cần, có Giáp chế thổ thì không hèn hạ, có Kỷ làm đục Nhâm thì không quý, có Nhâm thủy tiết kim, cho nên hơi có năng lực vậy, tóm lại thổ nhiều nhất định lấy Giáp để giải cứu, chi thấy 1 Giáp, tức y lộc không có mất, như không có Nhâm Giáp, không được Tị dụng Canh Đinh, phối hợp được tốt, có thể được danh theo con đường khác, Trích Thiên Tủy viết: Giả dụng thì cuối cùng vẫn là người bình thường vậy.

Hoặc một lúc thấy Ất mộc, không có Giáp không có Nhâm, là Tài đa thân nhược, cuối cùng khó phát đạt, thấy Canh chế Ất, có thể là tiểu phú quý, nhưng nhiều gian trá, như Tỉ Kiếp quá nhiều, cũng thuộc bần tiện.

Bổ túc nói phép xem dụng Tài, ở trên nói Nhâm tiết nhiều là nói Thương quan sinh Tài vậy, chỗ này lại nói chuyên dụng Tài tinh, Ất tuy là mộc suy kiệt, mà Tân cũng là kim suy kiệt, dù có ở tháng Dậu mùa đang vượng, bên ngoài thì cường mà trong thì khô kiệt, không đủ lấy để khắc, cuối cùng là Tài đa thân nhược. Không được Canh kim để hỗ trợ, thì không thể chế Ất, nhưng mà Ất Canh tương hợp, là Tỉ Kiếp lưu luyến Tài tinh, cho nên chủ gian trá, chỗ này là nói Tài nhiều lấy Kiếp để phân tài làm dụng, nếu Tỉ Kiếp quá nhiều, là phân đoạt Tài tinh, cũng thuộc bần tiện.

Tóm lại, tháng 8 Tân kim quá vượng, chuyên dụng Nhâm thủy, sau lấy Giáp mộc phá thổ, thủy được lưu thông là tốt.

Tổng kết Kim sinh tháng mùa Thu, thổ nặng, bần cùng không có một tấc sắt, ngày Lục Tân gặp giờ Mậu Tý, vận hỉ Tây phương, âm nhược thì triều dương, rất kỵ Bính Đinh cung Ly, Canh Tân cục đủ Tị Dậu Sửu, địa vị trọng quyền cao.

Thổ trọng tức là Thổ hậu mai kim vậy, thấy ở đoạn văn trên, ngày Lục Tân gặp giờ Mậu Tý, là Triều Dương cách vậy, kỵ Quan Sát phá cách, thấy ở Tiết tháng giêng Tân kim, Tý thủy đắc dụng, có thể thành quý cách, can tụ Canh Tân, chi toàn Tị Dậu Sửu, là Tòng Cách cách vậy, kim đã thành khí, không nên thấy hỏa, nhất định cần Nhâm thủy lấy tiết khí, cùng Bạch Hổ cách là giống nhau, thấy ở đoạn văn trên, lấy 3 câu ở trên, ý nghĩa đều lặp lại, không thành một đoạn, là do ở bản sao chép bỏ mất chỗ tạo thành chìa khóa cơ bản.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Mậu Thìn, Tân Dậu, Tân Dậu, Mậu Tý
Phủ viện.

Mậu Thìn, Tân Dậu, Tân Sửu, Mậu Tý
Lấy hai tạo ở trên, đều là Lục âm triều dương, thấy Sửu tạp khí, cho nên là chức nhỏ.
Ghi chú: Tạo ở trên có thiên can là Mậu thổ, không tổn thương ở dưới Tý thủy, kim thủy khí thanh, cho nên quý, tạo ở dưới có bệnh ở Tý Sửu hợp lại, dụng thần bị thương, cho nên chức nhỏ.

Kỷ Dậu, Quý Dậu, Tân Mùi, Kỷ Hợi
Hai người cùng mệnh, một là chức văn gia đình nghèo khổ, một là chức võ cũng có gia định nghèo khổ.
Ghi chú: Tạo này có Kỷ Quý cùng thấu, chính là Thấp nê ô kim (bùn nhão làm bẩn kim). Tiếc là Nhâm Giáp đều ẩn tàng, chỗ gọi là không quý cũng không tiện, hơi có năng lực là vậy.

Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Tân Dậu, Bính Thân
Thân cường Sát ít, là Quan Ấn tương sinh, làm quan Tri Phủ.
Ghi chú: Tạo này có Bính Đinh Quan Sát sinh Ấn, Thân tàng Canh Nhâm, nhưng vui mừng được nạp thóc mà có danh.

Đinh Mão, Kỷ Dậu, Tân Hợi, Nhâm Thìn
Đinh Nhâm lưỡng thấu, từng làm tướng.
Ghi chú: Tạo này có năm tháng là Sát Ấn tương sinh, thời thượng Nhâm thủy cao thấu, Kỷ không làm đục Nhâm thủy, Nhâm không hợp Đinh, cho nên có địa vị làm tướng soái.

Quý Tị, Tân Dậu, Tân Dậu, Mậu Tý
Hoàn toàn không có khí mộc khai thông thổ, là cô bần.
Ghi chú: Tạo này cũng là Lục Tân triều dương cách, Tị cung Bính Mậu đắc lộc, Mậu thổ thái trọng, Quý thủy xuất can bị thương, đến mức là cô bần, xem thêm ở trên có 2 tạo Mậu Thìn.
Lấy ở trên làm chìa khóa cơ bản.

Canh Ngọ, Ất Dậu, Tân Hợi, Mậu Tuất
Đồng Trị năm thứ 9, tháng 8, ngày 17, giờ Tuất.
Mệnh Cao Lăng Úy: Canh kim phá Ất, Hợi cung tàng Giáp mộc phá Mậu, chi thấy Nhâm thủy, vẫn có hiển chức bằng con đường khác.

Đinh Sửu, Kỷ Dậu, Tân Sửu, Đinh Dậu
Quang Tự năm thứ 3, tháng 8, ngày 19, giờ Dậu.
Mệnh Diêu Mộ Liên: Chi thành kim cục, không có Nhâm dụng Đinh, là Hỏa luyện chân kim, giàu có.

Bính Tuất, Đinh Dậu, Tân Mùi, Kỷ Hợi.
Quang Tự năm thứ 12, tháng 8, ngày 11, giờ Hợi.
Mệnh Đinh Quế Tiều: Bính Đinh Quan Sát sinh Ấn, hỉ Hợi cung Nhâm Giáp đắc dụng, thủ Nhâm chế hỏa, thủ Giáp phá thổ, địa vị là Phú Doãn.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Cửu nguyệt Tân kim (Tháng 9, Tuất, Hàn Lộ)

(Tháng 9 Mậu thổ nắm lệnh, là mùa Mẫu vượng Tử tướng, hỉ Giáp khai thông mùa thổ, Nhâm tiết vượng kim, trước lấy Nhâm sau là Giáp)
Tháng 9, Tân kim dư khí vẫn còn thịnh, Mậu thổ Chính Ấn nắm lệnh, là Mẫu vượng Tử tướng. Thổ trọng có lo lắng mai kim, không thể không có Giáp, thổ táo sợ kim giòn, không thể không có Nhâm, hai Nhâm Giáp cùng giao nhau làm dụng, sơ lược ba tháng lưu hành giống nhau, được Thìn thổ thấp nhuận, Tuất thổ vượt quá táo khô, quan trọng là tình cảm thủy mộc, cũng lại là cấp thiết vậy.

Nhâm Giáp lưỡng thấu, chi thành thủy cục, khoa giáp phú quý không có nghi ngờ, nếu một Nhâm thấu, không có Giáp, thấy hai Mậu tàng chi, là thường nhân, hoặc trong chi có Giáp chế Mậu, là tiến cử giám sát sinh viên, hoặc một Giáp xuất can, Nhâm thủy ở chi, trong trụ nhiều Mậu, là khó hiển đạt, nếu hai Giáp xuất can để chế Mậu nhiều, là phú nhiều quý ít, càng có lợi đao bút.

Tháng cuối mùa thổ vượng, dù không có Mậu thổ xuất can, cũng có ngăn trở trần thế, cho nên không thể không có Giáp. Thấu Giáp thì hiển dụng, Giáp tàng thì dụng mờ tối. Kim thủy lấy khí thanh thủ quý; sinh ở tháng cuối, Mậu thổ ám vượng, không có Giáp không đủ để khứ trọc lưu thanh, cho nên không có Giáp là thường nhân; tàng Giáp tức là có y câm (có học hành), dụng Giáp là Tài phá Ấn, dụng ở Tài tinh. Cho nên quý nhất định kiêm cả phú, hiển đạt cũng ở Dị đồ (đường đi khác nhau) vậy.

(Hoặc ngày Tân tháng Giáp, năm, giờ lưỡng thấu Nhâm thủy, chi lại thấy Canh, là gốc phát sinh thủy, cho dù có bốn Mậu tàng chi, cũng có thể Khứ trọc lưu Thanh, có thể định nhất bảng. Nếu gặp tháng Mậu Tuất, dù có Giáp tàng chi, không thể thành danh, mà còn tổn hại tổ nghiệp.)
Tiếp đoạn văn ở trên, Giáp Mậu thấu tàng, lực dùng trở lại khác biệt, tháng Giáp Tuất dù khiến có 4 Mậu, cũng có thể phá hại, tháng Mậu Tuất dù có Giáp mộc tàng chi, không thể phá Mậu, phàm tháng Tuất, đều có thể lấy ví dụ chỗ này mà suy ra (xem tiết ở trên),Tân kim nhu nhược, sợ thổ nhiều, khí thanh phụ trợ , dễ bị chôn vùi không có ánh sáng, cho nên không thể thành danh vậy.

Tóm lại, lệnh thổ có tới 4, 5, dù có một Giáp xuất ra can, khó mà khắc chế, nhất định thành thổ dày vùi kim, hèn yếu nhu nhược, mê muội chạy khắp nơi; nếu Nhâm thủy xuất ra can, rửa thổ mà sinh Giáp, tuy không nói quý, cuối cùng chịu khó khổ mà có thể giàu có, nhưng mà nô lệ cho đồng tiền mà thôi.

Tổng kết, dụng Nhâm ý là không thể không có Giáp làm phụ tá, lệnh thổ đang nắm lệnh. Tân kim tháng 9 thì cần dụng Nhâm Giáp hỗ trợ cho nhau. Tuất là hỏa mộ, như trụ gặp một hỏa, tức có thể dẫn hóa Giáp mộc, phản sinh Mậu thổ, mà Mậu là táo thổ, Thu Mộc khô héo, tức khiến cho không có hỏa, cũng có lo lắng Thổ đa Mộc chiết, được thủy thì có thể chế hỏa sinh mộc, thủ Nhâm thủy là vì Nhâm có tính xung chạy, xung quét sợ trùng điệp, Tân kim tự hiển lộ vậy.

Không có Giáp, được tháng giờ có theo bên mình Bính xuất ra hóa thủy, hơi giàu có, thêm chữ Thìn ở chi (Nhâm Thìn), là chỗ chân hóa thủy, thì đại phú đại quý, chỗ này là nói Biến cách, sau Sương Giáng thủy tiến khí, cho nên Bính Tân tương hợp, có thể hóa thành thủy, chữ Thìn ở chi, là giờ gặp Nhâm Thìn vậy. Hóa khí mới chính xác, cung Tuất Mậu thổ là trở ngại hóa thủy, thấy Giáp khứ Mậu, chẳng lẽ không phải là đẹp, không biết là Bính gặp Giáp, là có tình tương sinh, tức là không thể tòng theo Tân mà hóa vậy. Trở lại tháng 9 thổ vượng nắm lệnh, khí thủy nghịch, chỗ này nói là hóa thủy, nhất định chi đầy đủ Thân Dậu Tuất phương Tây vậy, giả sử không phải thành phương, dù có được Nhâm Thìn, cũng không thể hóa (xem ở dưới bày ra tạo Quý Hợi là tự sáng tỏ, học giả cần chú ý).

(Hoặc mộc nhiều mà thổ ít, nhưng có Tuất trong có một Mậu, lại không có một thủy thì là thường nhân)
Tường thuật Nhâm Giáp cùng dụng, tháng 9 Mậu thổ nắm lệnh, thổ nhiều thủy ít là bình thường, mộc nhiều thổ ít là thay đổi, cung Tuất là táo thổ, không phải gặp thủy nhuận thổ, không thể sinh kim,Tài vượng phá Ấn, thân nhược không thể gánh Tài, như thân vượng mà Tài nhiều, cùng cần có Thực Thương để xoay chuyển, cho nên khônsg có thủy quyết là người bình thường.

(Hoặc Quý nhiều xuất can, tuy không có công tẩy rữa sạch sẽ, cũng có dung kim thanh, chủ có gian nan phú quý.)
Chỗ này là nói không có Nhâm dụng Quý vậy, tính Nhâm thủy không có cản trở, cho nên có công quét xói mòn, còn Quý thủy thì nước sâu trong veo, chỉ có dụng nhuận ướt. Nhưng cũng cần có Giáp mộc xuất ra can, không có Mậu thổ cùng thấu, mới có phú quý, nếu không, Quý bị Mậu hợp khứ, không thể là kim thanh vậy.

(Hoặc có Kỷ thấu, không có Nhâm có Quý, cũng có thể sinh cho Tân kim, hơi có phú quý, nhưng mà nhiều Kỷ liền ngăn lại, chỉ là Trọc phú mà thôi, không biết vui thú thanh nhã vậy).
Theo đoạn văn ở trên, Quý thấu mà gặp Mậu, thì mất dụng, không có Mậu mà gặp Kỷ, được Quý nhuận trạch, là tiểu phú tiểu quý có thể thừa nhận.

(Kỷ đa trọc thủy ô kim (Kỷ nhiều thì thủy đục, kim dơ bẫn), tuy có Nhâm thủy, cũng không thể nói là quý.)

Tóm lại, tháng 9 Tân kim, hỏa thổ là bệnh, thủy mộc là dược, chuyên lấy Nhâm là dụng, lấy Giáp mộc làm phụ tá, Bính hỏa đắn đo mới dùng.

Bính Tuất, Mậu Tuất, Tân Mùi, Nhâm Thìn
Nhâm thấu thiên can, địa vị tới Thượng Thư, do thiếu giáp, không có con.
Ghi chú: Tạo này hỏa thổ kim thủy thuận theo thứ tự tương sinh, thổ trọng có lo sợ vùi kim, hỉ nhất là Tài hương, vận hành Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn Đông phương đất thủy mộc, nên là đại quý, cuối cùng tới Mậu thổ khắc Nhâm, không có Giáp để cứu, thiếu con kế thừa.

Bính Tuất, Mậu Tuất, Tân Mùi, Kỷ Sửu
Dụng Quý thêm kim, dụng Bính lam ấm thổ, là Cử nhân, là nhà giáo.
Ghi chú: Thổ trọng mai kim, hỉ có Sửu cung thổ kim thủy sinh sinh không ngừng, khí cục đều ít, giờ quy mộ, cuối cùng khó hiển đạt vậy.

Mậu Tuất, Nhâm Tuất, Tân Dậu, Giáp Ngọ
Khứ trọc lưu thanh, chủ đại phú quý, hành Ngọ vận, suy tàn mà chết.
Ghi chú: Giáp mộc xuất can phá Mậu hộ Nhâm, cho nên nói Khứ trọc lưu thanh, tiếc là thời thượng Ngọ phá Dậu, Tân lộc bị thương, lại hành Ngọ vận, bị suy yếu mà chết, cái Tài Quan Thực Ấn lục thần, là lấy can với can mà biến hóa, hội hợp hình xung, là lấy chi với chi mà biến hóa, đều là Thần Sát vậy, luận can không luận chi, thì không thể dùng hết biến hóa.

Kỷ Hợi, Giáp Tuất, Tân Hợi, Mậu Tuất
Hợp khứ Giáp mộc, Nhâm thủy hỗn tạp bế tắc, cho nên làm thường nhân.
Ghi chú: Giáp bị Kỷ hợp, không thể phá thổ, Nhâm bị thổ vây khốn, không thể tiết kim, chi không có Canh kim, cho nên không thể thành danh vậy.

Tân Hợi, Mậu Tuất, Tân Hợi, Mậu Tuất
Thanh Trọc một nửa, lưỡng can không tạp, hơi có phú quý.
Ghi chú: Chỗ này cũng là cục thổ trọng mai kim, hỉ có lưỡng can không tạp, Tân kim vẫn có thể tự hiển dụng, cho nên hơi có phú quý.

Quý Hợi, Nhâm Tuất, Tân Dậu, Bính Thân
Nhâm Bính lưỡng thấu đủ, bát tọa.
Ghi chú: Tạo này Bính Tân hóa thủy, hỉ chi đủ Thân Dậu Tuất Tây phương, kim khí thiên vượng, Mậu thổ lùi bước, lại được Hợi cung Giáp mộc phá thổ, Nhâm Quý xuất can, kim thủy lại gặp tiến khí, Bính hỏa không có căn, tòng Tân mà hóa, là cách đại phú quý vậy.
Lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Nhâm Tý, Canh Tuất, Tân Tị, Nhâm Thìn
Khang Hi (niên hiệu vua Thánh Tổ nhà Thanh, Trung Quốc, công nguyên 1662-1722) năm thứ 11, tháng 9, ngày 9, giờ Thìn.
Mệnh Trương Đình Ngọc: Nhâm thủy thấu cao, Canh gốc phát ra thủy, Tuất Tý kẹp Hợi, Nhâm Giáp ám tàng, tứ chi tụ hai cung Càn Tốn, phú quý thọ, là có thanh là nhất đại danh thần vậy.

Giáp Thìn, Giáp Tuất, Tân Mão, Tân Mão
Đạo Quang năm thứ 24, tháng 9, ngày 27, giờ Mão.
Mệnh Hồ Học Chấn: Lưỡng Giáp phá thổ, xuất thân Khoa giáp, địa vị tới Tòa Án tỉnh Hà Nam.

Mậu Tý, Nhâm Tuất, Tân Mùi, Quý Tị
Quang Tự năm thứ 14, tháng 9, ngày 23, giờ Tị.
Mệnh Vương Độn Căn: Nhâm Quý xuất can, Mậu thổ cùng thấu, không có Giáp mộc để cứu, có bệnh không có dược, Nhâm Quý tiết tú, thông minh có thừa, văn học danh gia, Mậu thổ xuất can không có chế, cho nên chôn vùi ở dưới vậy.

Quý Tị, Nhâm Tuất, Tân Mão, Tân Mão
Quang Tự năm thứ 19, tháng 9, ngày 12, giờ Mão.
Mệnh Từ Mô: Nhâm thấu, chi có mộc khí phá thổ, địa vị tới Thứ trưởng Tại bộ.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thập nguyệt Tân kim (Tháng 10, Hợi, Lập Đông)

(Tháng 10 là mùa gặp Tiểu dương, dương khí ban đầu còn ẩn náu, hàn khí chưa thịnh, trước dụng Nhâm thủy, sau dụng Bính hỏa, là ấm Nhâm ấm Tân)
Tân kim hỉ Nhâm thủy tẩy rửa, sinh ở tháng 10, nhất định kiêm lấy Bính hỏa, là do hàn khí dần dần tăng vậy, được Bính hỏa thì thủy ấm kim ấm, được Nhâm thủy là Kim bạch thủy thanh, cho nên dụng thần không cách ly khỏi Nhâm Bính. Sách viết: Kim thủy Thương quan, chính là nói ở mùa Đông vậy. Nhâm Bính lưỡng thấu, là Kim bảng đề danh, là sao vậy? Tân kim có Nhâm thủy Bính hỏa, gọi là kim bạch thủy thanh, lại ở tháng Hợi, cho nên khoa giáp phú quý không nghi ngờ. Bính thấu Nhâm tàng, cũng được tiến cử làm giám sát thi Hương, bằng con đường khác cũng có thể làm quan có tiếng. Bính tàng Nhâm thấu, phú nhiều quý ít. Nhâm Bính đều tàng, bất quá là tú sĩ.

Tháng 10 Tân kim, Nhâm Bính cùng dụng, Hợi cung Nhâm thủy nắm quyền, dụng thần đang vượng, cho nên khoa giáp không sợ không có phú quý. Bính hỏa cần thông căn không có hợp mới tốt. Không có Bính mà có Nhâm Mậu, chủ phú. Hoặc tứ trụ nhiều Nhâm không có Mậu, gọi là Kim thủy uông dương, định là chủ bần tiện, hoặc Mậu thổ xuất can, để chế Nhâm thủy đang quyền, khoa giáp là không nghi ngờ, hoặc Mậu tàng ở Dần Tị, là kẻ sĩ được tiến cử Tú tài.

Kim thủy Thương quan hỉ thanh, kỵ thấy Mậu thổ, chỗ này là nói dụng Mậu khi Nhâm thủy quá nhiều. Thủy vượng kim trầm, là biến cục của Kim thủy thương quan, nhất định lấy Mậu thổ giải cứu. Mậu thổ cần Bính hỏa làm ấm, mới có thể chế thủy đang nắm quyền, cho nên Mậu thấu thông căn ở Dần Tị, tất nhiên là quý hiển. Không có Bính chỉ là chủ phú. Kim thủy đồng tâm, nên xem theo toàn cục, cùng Nhâm thủy có Ấn mà dụng Tài Quan đồng luận, cùng đoạn văn ở trên nói Nhâm Bính là khác nhau (xem thêm ở tiết tháng 11).

Hoặc Giáp nhiều Mậu ít, là người làm nghệ thuật dẫn đến giàu có, hoặc Kỷ nhiều có Nhâm Mậu. Nhâm thủy bị vây khốn, Tân kim bị chôn vùi, cũng chủ khốn khổ, định làm nghệ thuật suốt đời, mà cả đời hậu trọng, như thấy Giáp là không hợp, liền thành phú ông.

Tiếp ở trên, ý nói không có Bính mà có Nhâm Mậu, thấy nhiều Giáp, Mậu thổ không thể ngăn thủy, chỉ có thể chuyên dụng Tài tinh, lấy kim thủy Thương quan thì kỵ Mậu Kỷ gây trở ngại mà hỗn trọc, nếu không lấy Thương quan, thì không kỵ, Tân kim bị hưu tù, thổ yếu bế tắc không sinh kim, thổ trọng thì chô vùi kim, Tân được sinh phù, liền có thể dụng tài, cho nên có thể dẫn đến giàu có, thổ che đậy ánh sáng kim, cuối cùng làm nghệ thuật, Kỷ nhiều là nói chi thấy Sửu Mùi vậy, Mậu thổ có Sửu Mùi là căn gốc, liền có thể bế tắc Nhâm mà chôn vùi Tân, cho nên là chủ khốn khổ nặng, thấy Giáp không hợp, là Tài vượng phá Ấn, liền thành là phú cách.

Hoặc Nhâm Quý quá nhiều, không thấy Mậu thổ chế thủy, Bính hỏa làm ấm kim, là người bôn ba lao khổ.

Tổng kết ý nói Nhâm Quý nhiều thì nhất định cần dụng Bính Mậu, không có Bính dụng Giáp mộc Tài tinh, phú mà không quý.

Tóm lại, tháng 10 Tân kim, trước dụng Nhâm sau dụng Bính, lại hoặc là trước dụng Bính sau dụng Kỷ, cần cân nhắc mà dụng.

Tổng kết đoạn văn ở trên, trước dụng Nhâm sau dụng Bính là chính dụng, trước dụng Bính sau dụng Kỷ là nói Nhâm thủy quá vượng, là do Tân kim tiết nhược vậy.

Nhâm Thìn, Tân Hợi, Tân Hợi, Bính Thân
Mệnh vua nhà Thanh (Trung Quốc, công nguyên 1616-1912), Thái Tông Hoàng đế: Bính Nhâm cùng thấu, là Kim bạch thủy thanh. Thai Nguyên Dần cung, dẫn sinh khí Bính hỏa, là Kim ôn thủy noãn, mệnh gây dựng cơ đồ đế vương. Tạo này cũng có thể lấy hóa khí luận, nhưng Hợi cung có Giáp mộc trường sinh, mộc hỏa khí động, sách viết: Có dụng chỉ luận dụng, không có dụng mới luận cách, là cục biến cách vậy, tạo này có Bính khả dụng, tự lấy dụng Bính là đúng.

Tân Tị, Kỷ Hợi, Tân Tị, Kỷ Hợi
Khang Hi năm thứ 4, thag1 10, ngày 28, giờ Hợi.
Mệnh Duẫn Văn Đoan Công: Tạo này dụng Bính Kỷ, kì diệu ở tứ trụ trên dưới đều tương hợp, tinh thần đoàn kết, Kỷ thổ hỗn Nhâm sinh Giáp, dẫn sinh Bính hỏa, cũng là kỳ cách vậy, hai can không tạp, là Hồ Điệp song phi, là lấy quý kèm theo cách, vận hành Nam phương, địa vị cao nhất quần thần, địa vị làm Tổng đốc Lưỡng Giang.

Mậu Ngọ, Quý Hợi, Tân Dậu, Canh Dần
Hàm Phong năm thứ 8, tháng 10, ngày 19, giờ Dần.
Mệnh Điền Văn Liệt: Quý bị Mậu hợp, chuyên dụng Hợi cung Nhâm thủy, hỉ được Tân Dậu là Chuyên Lộc, Canh Kiếp trợ giúp, Dần cung có Bính hỏa làm ấm kim, địa vị là Tỉnh trưởng Hồ Nam, Tổng trưởng Bộ Nội vụ.

Ất Sửu, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Nhâm Dần
Đồng Trị năm thứ 4, tháng 10, ngày 6, giờ Dần.
Mệnh Tổng Lý Tôn Trung Sơn: Nhật Quý lại gặp Nguyệt Quý, mệnh tạo xưa và nay, hướng về chỗ hiếm thấy, tiếc là lập mệnh Quý Mão, cùng Nhật nguyên Đinh Dậu, là Thiên khắc địa xung, cho nên sự nghiệp cả đời, trải qua nhiều lần gặp hiểm trở gian nan mà sau mới thành vậy.

Đinh Sửu, Tân Hợi, Tân Hợi, Đinh Dậu
Quang Tự năm thứ 3, tháng 10, ngày 30, giờ Dậu.
Mệnh Từ Quốc Lương: Dụng Nhâm không có Bính, lấy Đinh hỏa làm ấm kim ấm thủy, quý mà tựu vũ chức, là Thống lĩnh sư đoàn.

Giáp Thân, Ất Hợi, Tân Tị, Mậu Tý
Quang Tự năm thứ 10, tháng 10, ngày 10, giờ Tý.
Mệnh Trương Chí Đàm: Giáp mộc xuất ra can phá Mậu, chuyên dụng Hợi cung Nhâm thủy, Tị cung Bính Mậu, địa vị là Tài trưởng.

Ất Dậu, Đinh Hợi, Tân Mão, Mậu Tý
Quang Tự năm thứ 10, tháng 10, ngày 26, giờ Tý.
Mệnh Mã Chiêm Sơn: Dụng Nhâm thủy, lấy Đinh hỏa làm ấm kim ấm thủy, quý và tựu vũ chức, là Tổng Lĩnh sư lữ đoàn, năm xưa kháng chiến ở Đông Bắc mà đắc danh.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thập nhất nguyệt Tân kim (Tháng 11, Tý, Đại Tuyết)

(Tháng 11 trong Tý có Quý thủy đắc lệnh, là Vũ lộ Hàn Đông, tối kỵ Quý thủy xuất ra can, kim bị đóng băng mà vây khốn Bính hỏa)
Vũ lộ Hàn Đông là sương tuyết, thần nắm lệnh tức là khí hậu, Tân kim không cách ly khỏi Nhâm Bính là dụng, mà kim thủy ở giữa mùa Đông, thì càng lấy Bính hỏa điều hậu là trước tiên, Bính hỏa cần được chỗ thông căn, không nên gặp hợp ở Tân, phàm luận mệnh lấy thần đang vượng là quý (Thần nắm lệnh là dụng) mà Tân kim sinh giữa mùa Đông, do đó chỗ lấy thần nắm lệnh xuất can là kỵ, vốn là lấy khí hậu quan hệ rất quan trọng vậy.

Được Bính Nhâm lưỡng thấu, không thấy Mậu xuất ra, thì Khoa giáp quan hiển, dù Nhâm thủy tàng chi, có Bính thấu làm ấm kim và ấm thủy, định là nhất bảng.

Kim thủy Thương quan, hỉ Bính hỏa điều hậu, không nên thấy Mậu thổ ngăn thủy chảy, cho nên Nhâm Bính lưỡng thấu, không thấy Mậu thổ là quý chỗ quan trọng là ở Bính hỏa, được Bính thấu Nhâm tàng cũng quý, lý lẽ giống tháng 10, có thể xem thêm.

Hoặc có Nhâm nhiều mà có Mậu, Bính Giáp xuất can, phối hợp được trung hòa, không chỉ là tiến cử làm giám sát sinh viên, hoặc Nhâm nhiều, không có Mậu không có Bính, tiết kim thái quá, định là Hàn nho, dụng Giáp tiết khí mới tốt, hoặc Nhâm nhiều, Giáp Ất cũng nhiều, không thấy Bính hỏa, là hàn nho tú sĩ.

Nhâm nhiều tiết Tân thái quá, là Kim thủy uông dương, lấy toàn cục mà luận, lấy Nhâm thủy làm chủ, không lấy Tân kim làm chủ, cho nên lấy Mậu thổ là dụng trọng yếu. Bính hỏa là thần điều hậu, không có Mậu đề phòng, chỉ có thể dụng Giáp mộc tiết khí Nhâm, chỗ gọi là dụng thần nhiều thì nên tiết vậy, mùa gặp hàn lạnh quá mức, thì Bính hỏa điều hậu không thể thiếu, cho nên không có Bính cuối cùng thành hàn thổ.

Hoặc chi thành thủy cục, lại thêm Bính thấu, có 2 Mậu xuất can, chủ đại phú quý, không có Mậu xuất ra chế, là bần khổ thường nhân.

Tiếp đoạn văn ở trên, chi thành thủy cục, thế lực Canh càng uông dương (mênh mông), chỉ lấy Nhâm thủy làm chủ, thì thủy vượng kim trầm, cho nên luận Nhâm không luận Tân, không lấy kim thủy Thương quan, tham chiếu phép xem ở Nhâm thủy tháng 11, chuyên dụng Bính Mậu, là cách cục thay đổi vậy (xem thêm ở dưới ví dụ mệnh tạo chứng minh).

Hoặc lại có Hợi Tý Sửu thủy nhuận hạ thông nguyên, thêm can xuất ra Canh Tân, không thấy Mậu thổ, gọi là Nhuận Hạ cách, phú quý phi thường, vận hỉ Tây Bắc, kỵ đất Đông Nam, hoặc không có Canh Tân xuất can, mà can thấy Ất Kỷ, lại không có Bính Mậu, nhất định là Tăng đạo.

Tiếp đoạn văn ớ trên nói, chi thành phương cục, can xuất ra Canh Tân, mà không có Bính Mậu, lấy toàn cục luận, cách giống như Nhuận Hạ, lại là biến cách vậy. Giáp Ất mộc sinh ở tháng 4,5, hỏa thành phương cục, là mộc hỏa Thương quan biến thành Viêm thượng, Canh Tân sinh ở mùa Đông, thủy thành phương cục, là kim thủy Thương quan biến thành Nhuận Hạ, lý lẽ chắc chắn trước sau như một thông suốt, không thấy Mậu thổ là Nhuận Hạ thành cách chủ yếu là có điều kiện, có Bính Mậu giống như Tiết ở trên nói Nhâm nhiều mà có chi thành thủy cục, phàm Chuyên Vượng cách thủ vận, cần xem nguyên cục thuần túy hay không mà có phân biệt, như nguyên cục thuần túy, thì cần hành vận tiết tú (Nhuận Hạ cách hỉ Đông phương kỵ Nam phương).

Trích Thiên Tủy gọi là Độc Tượng hỉ hành hóa thần cần phải hưng thịnh là vậy, nguyên cục không thuần túy, thì cần hành vận trợ vượng, như Tòng hóa cách cục, cần hành đất Ấn Kiếp, lý lẽ như nhau, chỗ này là nói hỉ Tây Bắc kỵ Đông Nam chính là lấy Tân kim biến thành Nhuận Hạ, đề phòng kỳ không thuần túy vậy, nếu không có Bính Mậu mà thấy Ất Tị, là biến cách không thành, lại không có thể dụng, Tân kim bị tiết nhược, thì thành hạ cách.

Hoặc chi thành kim cục, Đinh thấu định chủ Khoa giáp, nhưng nhất định cần Giáp dẫn Đinh, mới có thể định ở chỗ này. Chi thành kim cục thấu Đinh, là Thương quan dụng Quan, chi thủy không tổn thương can hỏa, lại được Giáp mộc hóa Thương sinh Quan, có thể định là Khoa giáp, Giáp mộc không cách ly khỏi Đinh hỏa, hàn lạnh thì kim cần nhất là có hỏa làm ấm, là Tài Quan tương sinh, phú quý không nghi ngờ.

Tiết này phù hợp ở tiết tháng 12, đặc biệt ba tháng mùa Đông Tân kim, có thể thông dụng mà thôi.

Tóm lại, Đông nguyệt Tân kim, cần Bính làm ấm áp mới tốt.

Đông nguyệt Tân kim, cần Bính làm ấm áp, là do khí hậu quá hàn lạnh vậy, ngoại trừ biến cách ra, không thể cách ly khỏi Bính, xem đoạn văn ở trên là rõ.

Đinh Hợi, Nhâm Tý, Tân Sửu, Đinh Dậu
Tiến sĩ, địa vị thường xuất ra làm quan.
Ghi chú: Tạo này chi thành thủy cục, dụng Đinh, tiếc là Giáp không thấu, dù có Hợi cung Giáp mộc, mà thấp mộc thì khôg có sáng, Khoa giáp không làm quan.

Kỷ Hợi, Bính Tý, Tân Mão, Tân Mão
Hình phu, không có con, gia đình nghèo khó.
Ghi chú: Lưỡng tân tranh hợp một Bính, Bính tòng Tân hợp, có chồng như không có. Phú nói: Bính Tân Tý Mão tương hình, hoang dâm cổn lãng (Bính và Tân hợp, Tý và Mão hình là hoang dâm như đợt sóng cuồn cuộn chảy), chỗ này gọi là quá dâm dục.

Giáp Dần, Bính Tý, Tân Tị, Giáp Ngọ
Một nữ mệnh có chồng mà không có con, mang bệnh tật, là do thiếu chữ Nhâm vậy.
Ghi chú: Bính hỏa đắc địa, Giáp mộc tương sinh, Tài Quan thái vượng, chẳng những thiếu Nhâm thành bệnh, lại cùng thiếu Ấn thụ, Tân kim vô căn, sinh ở giữa mùa Đông, hỏa không nấu chảy kim, không đến nỗi bị chết yểu, cho nên mang bệnh tật là vậy.
Lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Đinh Tị, Nhâm Tý, Tân Tị, Đinh Dậu
Gia Khánh năm thứ 2, tháng 11, ngày 16, giờ Dậu.
Mệnh Hùng Học Bằng: Chi thành kim cục, Nhâm thủy xuất can, chuyên dụng Tị cung Bính Mậu, xuất thân Khoa giáp. Địa vị là tướng soái biên cương.

Nhâm Thân, Nhâm Tý, Tân Hợi, Quý Tị.
Đồng Trị năm thứ 11, tháng 12, ngày 1, giờ Tị.
Mệnh Truyện Tông Diệu: Chi thành thủy cục, có 2 Nhâm xuất ra can, lấy vượng thủy tiết suy kim, là Thủy vượng kim trầm, là Kim thủy uông dương, dung thành một khối, cách cục chuyển biến, là Huyền Vũ đương quyền, không dụng Mậu thổ thì không thể có đê điều phòng thủ, không dụng Bính hỏa thì không thể điều hậu, cùng với tháng 11 Nhâm thủy được Tân kim sinh phù, mà lấy Bính Mậu làm dụng, phép xem là giống nhau, như được giờ Nhâm Thìn, tức là Nhuận Hạ cách, kim sinh giờ Quý Tị, có Bính Mậu đắc địa, cho nên chuyên lấy Bính Mậu là dụng, không lấy Nhật can làm chủ, mà lấy toàn cục làm chủ vậy (cũng không lấy can năm làm chủ).

Sách viết: Kim thủy chắc chắn là thông minh, có thổ trái lại thành ngu đần, mà lấy kim thủy Thương quan luận, cần dụng Bính hỏa, hoặc lấy Tỉ Kiếp, phép không có dụng Mậu thổ vậy, tạo này như Bính Mậu xuất can chủ đại phú quý, tiếc là Tị Hợi xung nhau, dụng thần bị động xa, cuối cùng chịu tổi hại, nhưng Vong Thần, Kiếp Sát lại hỉ xung mà kỵ hợp, xung thì khí tán mà không thành họa, Mùi vận năm Canh Thìn, Mùi Hợi hợp giải xung, tháng 9 bắt đầu có biến cố bị hại mà chết, vận cũng tới vậy mà thôi.

Nhâm Thân, Nhâm Tý, Tân Hợi, Giáp Ngọ
Đồng Trị năm thứ 11, tháng 12, ngày 1, giờ Ngọ.
Mệnh Lý An Như: cùng tạo họ Phó hơi khác một giờ, Nhâm nhiều không có Mậu không có Bính, dụng Giáp mộc tiết khí Nhâm thủy, Ngọ cung Đinh Kỷ không thấu, lại được Hợi cung chỗ có Nhâm Giáp chế, cho nên dụng Giáp mộc không dụng Đinh Kỷ, rút cuộc là giới lưu thông Tài chính cự phách, mà không quý vậy, cùng Nhâm thủy dụng Giáp luận giống nhau, không lấy kim thủy Thương quan xem, tạo họ Phó có Mậu thổ chế Nhâm, lại không có Giáp mộc, không có Thương quan tinh, cho nên là người trong giới chính trị vậy.

Quý Dậu, Giáp Tý, Tân Hợi, Đinh Dậu
Đồng Trị năm thứ 12, tháng 11, ngày 6, giờ Dậu.
Mệnh Nghiêm Gia Sí: Năm, giờ có 2 Dậu, ý nghĩa như kim cục, vốn là có Đinh Giáp cùng thấu, lấy Giáp dẫn Đinh, có thể định là khoa giáp, xem ở trên tiết Chi thành kim cục, thủy vượng nắm lệnh, kim đến đất tử tuyệt, khí suy cần trợ, tức lấy giờ Quy Lộc làm dụng, vận hành Canh Thân, địa vị là Trưởng phòng Tài chính.

Ất Hợi, Mậu Tý, Tân Mùi, Mậu Tuất.
Quang Tự năm thứ nhất, tháng 12, ngày 8, giờ Tuất.
Mệnh Trịnh Hồng Niên: Tạo này là Thổ trọng mai kim, e rằng có sai lầm, tạm thời ghi chép lại.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
Thập nhị nguyệt Tân kim (Tháng 12, Sửu, Tiểu Hàn)

Tháng 12 khí lạnh thủy đóng băng, trước dụng Bính sau dụng Nhâm, không phải Bính không thể giải băng hàn, giải băng hàn thì thủy không đóng thành băng, mới có thể dụng Nhâm tẩy rửa.

Ba tháng mùa Đông Tân kim, không cách ly khỏi Nhâm Bính, cùng tháng 11 hơi giống nhau, khí hậu quá lạnh, cho nên trước dụng Bính, Bính Tân không hợp, mới có thể dụng giải băng hàn vậy.

Bính Nhâm lưỡng thấu, là người thanh nhã, phú quý, có tài năng ở Lang Miếu, hoặc có Nhâm Bính một thấu một tàng, cũng không thiếu được tiến cửu làm giám sát sinh viên, hoặc có Bính không có Nhâm, là chân phú mà giả quý, có Nhâm không có Bính, là tăng đạo cô bần, hoặc có Bính nhiều mà không có Nhâm có Quý, cũng là thường nhân, là người mua bán lưu động (bán hàng rong).

Tháng 12 Tân kim, điều hậu là khẩn cấp. Bính là dụng chủ yếu, Nhâm là khí thời lệnh, có thể lấy thiếu Nhâm, nhưng không thể không có Bính, ở giữa tàng và thấu, có thể biết địa vị hay phú quý, có Bính khí ấm áp, cho nên là người giàu có, không có Nhâm, Tân kim không tú khí, cho nên quý, có Nhâm không có Bính, khổ không có sức sống, không có thể lấy vậy, Bính nhiều, không có Nhâm có Quý, cần chú ý Bính nhiều mà thông căn, Quý tuy vây khốn Bính, khí hậu không hàn lạnh, lấy có Bính hỏa, cho nên có tài năng, lấy Quý vây khốn Bính, cho nên bị chôn vùi ở nơi giếng chợ.

Hoặc có hỏa gặp nặng, cần lấy Quý Kỷ làm chủ, Bính Đinh là quan lại, cũng chủ y lộc phong phú, cả đời an nhàn.

Sửu cung chỗ tàng là ba thần Kỷ Quý Tân, điều hậu là khẩn cấp, cho nên trước tiên là Bính hỏa, như hỏa thổ gặp nhiều, không cần điều hậu, cần Kỷ Quý xuất can, là Thực thần bội Ấn, đồng cung tụ khí, nhưng cũng không thể không có Bính Đinh, xem ở Tiết tháng 12 Quý thủy tuyết dạ đăng quang.

Cho nên tháng 12 Tân kim, trước tiên là dụng Bính sau mới dụng Nhâm, Mậu Kỷ càng là thứ yếu. Tổng kết đoạn văn ở trên.

Giáp Thân, Đinh Sửu, Tân Mão, Kỷ Hợi
Tài vượng sinh Sát, là Thiết chế quân đội.
Ghi chú: Tạo này có Sửu cung Kỷ Tân cùng thấu, tốt ở Giáp Kỷ không hợp, Hợi Mão hội cục, Tài tinh hữu khí, Giáp mộc dẫn Đinh mà mùa gặp quá hàn lạnh, Đinh hỏa đắc dụng, cho nên có thể lấy Tài Sát thủ quý vậy.

Kỷ Sửu, Đinh Sửu, Tân Sửu, Mậu Tý
Quan Thị lang.
Ghi chú: Kỷ Tân xuất ra can, cùg trong Tý có Quý thủy, khí tụ nguyệt viên Sửu cung, thấy một Đinh hỏa điều hậu, tức là ý nói Tuyết dạ đăng quang (ngọn đèn đêm tuyết), cũng là kỳ cách vậy.

Ất Sửu, Kỷ Sửu, Tân Mão, Canh Dần
Quan Thị lang.
Ghi chú: Tạo này chuyên dụng Dần cung có Bính hỏa, hỉ Kỷ Tân cùng thấu, cho nên có thể thủ quý.

Ất Mão, Kỷ Sửu, Tân Mùi, Đinh Dậu
Trước bần sau phú mà thọ.
Ghi chú: Tạo này có chi thành kim cục mộc cục, Kỷ Tân xuất can mà thiếu Quý thủy, Tân kim không tiết tú, cho nên không quý, Đinh hỏa là dụng, trước bần sau phú, mộc hỏa vận trợ giúp vậy.

Quý Sửu, Ất Sửu, Tân Mão, Mậu Tý
Dụng Mậu thổ chế Quý nhiều, Quan Ấn sát, không có con.
Ghi chú: Tạo này dụng Thai Nguyên Bính hỏa (Bính Thìn), thời thượng có Kiêu Ấn đoạt Thực, cho nên không có con.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa căn bản.

Ất Mùi, Kỷ Sửu, Tân Hợi, Bính Thân
Minh Vạn Lịch (niên hiệu của Vua Thần Tông thời Minh, Trung Quốc, 1573-1620) vào năm thứ 4.
Mệnh Phùng Thuyên: Bính Tân không thể hóa thủy, chuyên dụng Bính hỏa, cùng lấy Hợi cung có Nhâm thủy tiết tú, Giáp mộc phá thổ, xuất thân Khoa giáp, là hoạn quan nịnh hót dựa theo nước Ngụy, đời nhà Thanh làm quan tới Thị Lang.

Nhâm Thìn, Quý Sửu, Tân Sửu, Giáp Ngọ
Đạo Quang năm thứ 12, tháng 11, ngày 29, giờ Ngọ.
Mệnh Vương Tương Khỉ: Nhâm thủy cao thấu, giờ gặp Giáp Ngọ, lấy Giáp mộc dẫn Đinh, xuất thân Khoa giáp, không làm quan, là đại gia Văn học.

Giáp Tý, Đinh Sửu, Tân Sửu, Kỷ Sửu
Đồng Trị năm thứ 4, tháng giêng, ngày 5, giờ Sửu.
Mệnh Nhất Hàn Nho: Giáp mộc dẫn Đinh, Kỷ Tân cùng thấu, tiếc là Đinh Giáp đều không thông căn, mộc bị đóng băng không có sáng, không có con, một nữ đến già.

Đinh Sửu, Quý Sửu, Tân Mão, Quý Tị
Quang Tự năm thứ 3, tháng 12, ngày 11, giờ Tị.
Mệnh Trần Quýnh Minh: Tân Quý xuất can, Tị cung tàng Bính, chuyên dụng Bính hỏa, can năm có Đinh hỏa, là chỗ quý bị thương, không đủ dụng vậy, địa vị là Đô Đốc.

Mậu Tý, Ất Sửu, Tân Sửu, Nhâm Thìn
Quang Tự năm thứ 14, tháng 12, ngày 24, giờ Thìn.
Mệnh Trịnh Chính Thu: Tứ trụ không có hỏa, không đủ lấy nói là phú quý, Nhâm thủy tiết tú, cho nên thông minh có thừa, là nhà Kịch gia số một.

descriptionLuận KIM - Page 2 EmptyRe: Luận KIM

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết