Chính nguyệt Nhâm thủy - Tháng Giêng, Dần, Lập Xuân
Tháng giêng Nhâm thủy, tượng là Uông dương (đại dương mênh mông), chảy mãi không dừng, đã mất lệnh, cũng không có lo chảy tràn lan, là do tính thủy nắm được vậy, trước dụng Canh kim phát sinh gốc thủy, sau dụng Bính hỏa để trừ hàn khí, lại sau lấy Mậu thổ để ngăn dòng chảy, không đến nỗi bị thành đại dương mênh mông quá độ.
Nhâm thủy ở mùa sinh vượng, thì có tính xung chạy, mùa tới đầu Xuân, khí đã suy thoái, cho nên có tượng phân tán rời ra, nói Nhâm thủy không cách ly Bính Mậu làm dụng, nhưng ở Xuân Hạ, như không có Canh kim phát sinh gốc, thì có nguy cơ khô cạn, cho nên nhất định trước tiên là lấy Canh kim làm dụng, có kim tương sinh, mới lấy Bính hỏa để trừ hàn khí. Nhâm thủy trùng điệp thì dụng Mậu thổ để ngăn dòng chảy, tuy nói Canh Bính Mậu cùng dụng, tự có trước sau vậy.
Được cả 3 Canh Bính Mậu cùng thấu thiên can, là khách đào hoa, hoặc có Canh Mậu thấu, Bính sinh ở Dần, cũng chủ phú quý ân vinh, dù có một Canh thấu không có phá, không thiếu được tiến cử làm giám sát sinh viên.
Nói Canh Bính Mậu đều thấu là nói Nhâm thủy có Canh kim tương sinh, mà dụng Bính Mậu vậy, (Bính Mậu vượng thì dụng Canh kim). Dần cung có Giáp Bính tương sinh, Mậu thổ thì bị chỗ Giáp mộc chế, cho nên Canh Mậu thấu, Bính tàng ở Dần, dụng cùng Canh Bính Mậu đều thấu thì không có khác biệt. Ba tháng mùa Xuân Nhâm thủy lấy Canh kim là dụng thần chủ yếu. Không phải kim thủy quá vượng, Bính Mậu cũng không thể dụng, cho nên có Canh kim thấu xuất, không có Đinh hỏa phá Canh, không thiếu được tiến cử làm giám sát sinh viên.
Phàm ngày Nhâm không có Tỉ kiên Dương Nhận, không nhất định dụng Mậu, chuyên lấy Canh kim làm chủ, Bính hỏa là phụ tá, hoặc thấy Tỉ Kiếp Canh Tân, là tượng cực nhược hồi sinh, nên lấy Mậu thổ là chế. Mậu thấu có khoa giáp, Mậu tàng là Tú tài, càng hiển lộ ở con đường khác, mà lý sự thông đạt, nhưng mà không có tổ nghiệp, đều thuộc tính tự lập, cách này cần thấu hai phương hợp.
Tường thuật đoạn văn ở trên, ý nói lấy Canh là chủ mà dụng Bính Mậu, tháng Dần thì Nhâm thủy ở đất bệnh, dụng Mậu thổ Thất Sát, nhất định là do có Tỉ kiên Dương Nhận trợ thân, cho nên cực nhược lại thành cường, nếu không, chỉ có thể dụng Ấn, không thể dụng Sát, tức khiến cho cả 3 Canh Bính Mậu cùng thấu, dụng cũng ở Sát Ấn (Mậu, Canh), không ở Tài Sát (Bính, Mậu). Bính hỏa không luận dụng Ấn dụng Sát, đều không thể thiếu, dụng Sát không dụng Ấn, cho nên sự nghiệp do tự tay lập nên, lưỡng thấu là Nhâm thủy Tỉ kiên cùng Mậu thổ Thất Sát cùng thấu vậy, tức là ý nói có Tỉ kiên Nhận dụng Mậu thổ.
Hoặc Mậu nhiều có thấu có tàng, được một Giáp xuất can, gọi là Nhất tướng đương quan (một tướng giữ cửa thành), Quần tà tự phục (cả bầy tà khuất phục), khó mà nén cảnh rực rỡ, quyền lực không phải ít.
Chỗ này là nói biến cách. Nhâm thủy cực nhược được hồi phục cường, Mậu thổ lại nhiều là Thân cường Sát vượng, cần có Thực thần chế, là Thực thần chế Sát cách, Giáp Mậu đều là thần nguyệt lệnh đang vượng, tương chế để dụng, cho nên quyền lực không phải ít, nếu thân nhược thấy nhiều Sát, chỉ có thể lấy Canh Ấn hóa Sát, không thể dụng Giáp Thực chế Sát, tức là không luận chỗ này.
Hoặc chi thành hỏa cục, là Thủy hỏa ký tế, nhưng cả 2 không gặp thời, danh lợi đều hư, không thích trò chuyện, hứa mà không làm.
Chi thành hỏa cục, thân vượng Tài vượng, tháng Dần Giáp mộc nắm lệnh, thủy hỏa thông quan, cho nên nói là Ký Tế, tuy xã hội ở trên có thanh danh rất cao, địa vị càng cao, cuối cùng danh lợi đều hư, thì do lấy thủy hỏa cả 2 không gặp thời vậy, nhâm thủy không có căn, tiết ở vượng mộc, mộc lại sinh hỏa, cách thành Tòng Tài, cũng không phải là thượng cách, là do mất thời vậy.
Dụng Canh thì thổ là Thê kim là Tử, dụng Bính thì mộc là Thê hỏa là Tử, thì Thê hiền Tử tiếu, dụng Mậu thì hỏa là Thê thổ là Tử, là Thê hiền Tử tiếu, trăm sự đều thành.
Tháng giêng Nhâm thủy không thể cách ly khỏi Canh Bính Mậu là dụng, mà dụng Bính Mậu là Thê hiền Tử tiếu, Nhâm thủy chuyển nhược thành cường, Tài là Thê Quan là Tử, cho nên hợp ở yêu cầu vậy.Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Là phú ông.
Thực thần nắm lệnh sinh Tài, cho nên thành phú ông. Thường Tỉ kiên, ở dưới tọa Dần mộc, thì Tỉ Kiếp bị tiết khí, chuyển mà sinh tài, cho nên Tài vượng vậy.
Ghi chú: Nhâm thủy đến Thìn, là thông căn thân khố, chuyên dụng Dần cung có Bính hỏa Tài tinh, chỗ này gọi là Nhâm kỵ long bối vậy.
Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Lục Nhâm triệu Cấn, là quan Ngự Sử.
Ghi chú: Lục Nhâm triệu Cấn cách, là lấy Dần ám hợp Hợi, Nhâm thủy đắc lộc, lấy Lộc hư thần làm dụng, tạo này cùng ở dưới tạo Phó Hằng giống nhau, mà chỉ là Ngự Sử, thì lấy thành người thầy giáo, sinh ở Bắc phương, càng có thêm ranh giới của quý vậy.
Nhâm Tuất, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Kỷ Dậu
Thường nhân.
Ghi chú: Nhật tọa Dương Nhận, là Nhâm thủy đại dương mênh mông, mà Mậu thổ bị chỗ Giáp mộc chế, nên làm người tầm thường vậy.
Kỷ Tị, Bính Dần, Nhâm Thìn, Canh Tý
Tiếc là Mậu không xuất ra can, phú mà không quý.
Ghi chú: Kỷ thổ làm đục Nhâm thủy, không có Giáp thì không thanh, Bính Tài phùng sinh đắc lộc, cho nên phú.
Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Khang Hi năm thứ 61, tháng giêng, ngày 6, giờ Dần.
Mệnh Phó Hằng: là Lục Nhâm triệu Cấn cách, lấy Dần ám hợp Hợi, lấy cung Hợi là hư Lộc trợ thân, sinh ở Bắc phương, thủy vượng đắc địa, vận hành Tài Quan vượng địa, là cách cục đặc thù vậy, định là dòng nước vàng, chinh phục nước Miến Điện, tiêu diệt Cát Nhĩ, thành tích công lao mà làm quan tới Đại Học sĩ, phong tước Trung Dũng công, khi mất được tặng hiệu Văn Trung.
Giáp Thân, Bính Dần, Nhâm Thân, Canh Tý
Càn Long năm thứ 29, tháng giêng, ngày 20, giờ Tý.
Mệnh Nguyễn Nguyên: Bính Canh xuất can, Tý Thân hội cục, chuyên dụng Thực thần sinh Tài, danh trọng Nho lâm, làm quan tới Thái Phó, mất tặng danh hiệu Văn Đạt.
Tân Mão, Canh Dần, Nhâm Thân, Mậu Thân
Đạo Quang năm thứ 11, tháng giêng, ngày 18, giờ Thân.
Mệnh Trần Bảo Châm: Nhâm thủy thông căn ở Thân, Canh Tân cùng thấu, là Kim thủy uông dương, hỉ dụng Mậu thổ, Bính hỏa là phụ tá, là Hàn Lâm, sau tới Tuần Phủ, lại có mệnh Mã Phi Dao, năm tháng ngày giờ đều giống nhau, xuất thân là Tiến sĩ, địa vị là Tuần Phủ, cả hai tạo giống nhau.
Giáp Dần, Bính Dần, Nhâm Tý, Quý Mão
Hàm Phong năm thứ 4, tháng giêng, ngày 14, giờ Mão.
Mệnh Hoàng Thiệu Ki: Dụng Thực thần sinh Tài, làm quan Đề Học Sử.
Mậu Thìn, Giáp Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Dần
Đồng Trị năm thứ 7, tháng giêng, ngày 13, giờ Dần.
Mệnh Nghê Tự Trùng: Chỗ này cũng biến cách, Nhâm thủy tuy có Tỉ kiên xuất cann, thông căn ở Thìn khố, không được là vượng, nhưng trong Nhâm Tuất, Nhâm Dần có kẹp Hợi Tý Sửu, khí toàn Bắc phương, Nhâm được Hư thần trợ giúp, tự có tượng Uông dương , cho nên lấy Giáp mộc chế Sát làm dụng, chấp chưởng binh quyền, địa vị sắp xếp là Đô đốc.
Mậu Thìn, Giáp Dần, Nhâm Tuất, Bính Ngọ
Đồng Trị năm thứ 7, tháng giêng, ngày 13, giờ Ngọ.
Mệnh Thi Tái Thôn: Chi thành hỏa cục, trụ không có Tỉ Ấn, Tòng Tài mất lệnh, là phú ông mà không trọn, danh lợi đều hư.
Ất Hợi, Mậu Dần, Nhâm Dần, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ nhất, tháng giêng, ngày 4, giờ Hợi.
Mệnh Tưởng Nhạn Hành: Mậu thấu Giáp tàng, Ất mộc không thể chế Sát, vận hành Tây Bắc, Giáp Mậu đều không đắc địa, có thể là then chốt, mà phú quý thì không thể đo lường hết, là do ở đại vận không trợ giúp vậy.
Bính Tý, Canh Dần, Nhâm Dần, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ 2, tháng giêng, ngày 10, giờ Hợi.
Mệnh Mã Phúc Tường: Thời thượng Quy Lộc, chuyên dụng Bính hỏa Tài tinh, Kim Thanh Ngọc Chấn phú nói: Lộc phùng Tài Ấn, thanh niên cùng bước lên Khoa bảng là vậy, địa vị là Đô đốc.
Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 8, tháng giêng, ngày 15, giờ Tuất.
Mệnh Trương Tông Xương : là Lục Nhâm triệu Cấn cách, Dần Ngọ lại hội cục, Tài tinh ám vượng, Tỉ trọng thấy Tài, Tài như nước chảy, địa vị là Đô đốc, có binh lính nhiều, Tài nhiều, được bên vợ sủng ái, danh giá, hoặc nói giờ Mậu Giáp, lại nói giờ Kỷ Dậu, lại nói giờ Nhâm Dần, nói đủ giờ, theo bản thân thì là : cũng không tự biết lúc đó, nhưng biết mùa rực rở mới lên, nên lấy giờ Tuất là vậy.
Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Quý Mão.
Quang Tự năm thứ 8, tháng giêng, ngày 5, giờ Mão.
Mệnh Thái Nhạc: Chi tụ Dần Mão Thìn Đông phương, thấy Ngọ kẹp Tị quý, là Phượng hoàng củng quý cách, thủy mộc thanh hoa, tiếc là mộc thịnh nắm lệnh, tiết khí nhâm thủy, địa vị tới Đô đốc, yểu thọ, năm chỉ có 35 tuổi.
Giáp Thân, Bính Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 10, thanng1 giêng, ngày 16, giờ Dần.
Mệnh Chu Tác Dân: Giáp Bính cùng thấu, Nhâm thủy thông căn ở Thân Thìn, lại có Canh đắc lộc sinh cho, thân vượng gánh nỗi tài, Dần Thìn cả hai kẹp Mão quý Thực thần thành phương để sinh Tài, cách cự phú, là đại gia Ngân Hàng.
Giáp Thân, Bính Dần, Nhâm Tý, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 10, tháng 2, ngày 6, giờ Tuất.
Mệnh Tương Tác Tân: Giáp Bính cùng thấu, Canh kim xuất can, địa vị là Bộ trưởng Lục quân.
Mậu Tý, Giáp Dần, Nhâm Tý, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ 13, tháng 12, ngày 30, giờ Hợi.
Mệnh Lý Trạch Nhất: Dần cung Giáp Mậu cùng thấu, Thực thần chế Sát là dụng, sinh ở sau tiết Lập Xuân 7 ngày, mộc vượng thổ sụp, cần hành phù trợ đất Sát.
Mậu Tuất, Giáp Dần, Nhâm Dần, Kỷ Dậu
Quang Tự năm thứ 24, tháng giêng, ngày 18, giờ Dậu.
Mệnh Trương Hiếu Nhược: Giáp mộc xuất can, chế trụ Mậu Kỷ Quan Sát, chuyên lấy giờ Dậu kim là Chính Ấn làm dụng, hưởng phúc ở trên che chở, Tị vận năm Ất Hợi bị đâm mà chết, Dần Ngọ Tuất năm thấy Tị là Vong Thần, Hợi là Kiếp tối kỵ hợp, Tị Dậu Dần Hợi đều là hợp, tuế vận lại xung, không đắc lệnh cuối cùng mệnh hết vậy.
Bính Ngọ, Canh Dần, Nhâm Ngọ, Nhâm Dần.
Quang Tự năm thứ 13, tháng giêng, ngày 14, giờ Dần.
Mệnh vua nhà Thanh, Tốn Đế (Tuyên Thống, niên hiệu của vua Phổ Nghi thời Thanh, Trung Quốc, 1909-1911 ): Bính Canh Nhâm Tỉ cùng thấu, khôngt hể Tòng Tài, Tỉ Ấn lại đều là vô căn, chỗ này gọi là loại hóa khí mà không thành cục, loại Ấn thụ mà không thành Ấn, hành hạ thái quá, lực ký gửi quá xa cách phụ mẫu, mệnh đi đến làm con thừa tự vậy, chi thành hỏa cục, thủy hỏa thất thời, danh lợi đều hư.