KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Luận THỦY

descriptionLuận THỦY EmptyLuận THỦY

more_horiz
Luận Thủy

Trời nghiêng hướng Tây Bắc, Hợi là nơi nước bắt đầu chảy ra. Đất trũng phía Đông Nam, Thìn là kho nước chảy vào. Nước chảy ngược tới Giáp (1) thì tạo thành tiếng vang, cho nên thủy không đổ về Tây. Thủy tính nhuận hạ, thuận thì dung chứa được, xuôi theo 12 thần, nếu thuận chủ về độ lượng, có cát thần phù trợ, chính là quý cách. Nghịch thì có tiếng động, ngược hướng 12 thần, nếu nghịch mà nhập cách thì chủ thanh quý, có danh tiếng. Kị hình xung vì nước chảy tràn lan. Thích tự tọa Tử, Tuyệt bởi cát lành.

Khí của bốn mùa, lấy thủy hỏa mà sinh ra, hỏa tính viêm thượng (bốc cao), thủy tính nhuận hạ (thấm xuống), do vậy thủy sinh ở Thân, Lộc vượng ở Hợi Tý, đó là tính nhuận hạ. Tới Thìn thì ngừng, tiếp nhận quy nạp lại, quy về Thìn chính là Mộ vậy. Từ Tây qua Bắc đến Đông Nam là thuận dòng, thuận thủy tính, cho nên chủ tốt lành, có bao dung. Từ Đông sang Bắc đến Tây là nghịch hành, khuấy động, va đập mạnh nên chủ có danh tiếng. Thuận hành 12 thần là Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi. Nghịch hành 12 thần là Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất Dậu. Bất luận thuận hành hay nghịch hành, nếu nhập cách đều chủ quý cả. Gặp hình xung tựa dòng chảy ngang mà phá thủng đê điều. Tự tọa Tử như Nhâm Dần, Quý Mão; tự tọa Tuyệt như Quý Tị, Nhâm Ngọ, đều đóng ở đất Tài Quan nên đa phần chủ về phú quý.

Thủy không thể mất nguồn cội, dựa vào kim sinh mà chảy đi xa. Nước chảy tràn lan, nhờ thổ khắc tựa đê phòng. Thủy hỏa quân bình thì vừa được lợi vừa hoàn mỹ cả. Thủy thổ hỗn tạp, ấy là hung họa nguồn nước bị vẩn đục. Suốt bốn mùa, kị hỏa nhiều để thủy bị khát; kị thấy thổ trọng làm thủy không chảy được; kị gặp kim tử (chết), kim tử thì thủy khốn cùng; kị kiến mộc vượng, mộc vượng ắt thủy chẳng còn. Thẩm Chi nói rằng: Người mệnh thủy thì dao động (dễ lung lay), đa phần chủ trọc lạm (nước đục tràn lan), là nữ nhân càng kị. Khẩu quyết cũng nói: Dương thủy thân nhược thì bần cùng, âm thủy thân nhược thì chủ quý.

Tiếp theo nói về cách dụng thủy khi gặp kim mộc hỏa thổ. Thủy sinh mùa Xuân Hạ là đất hưu tù, gọi là vô nguyên (không có nguồn gốc), thủy được kim sinh thì chảy đi xa mãi. Thủy sinh mùaThu Đông thì quá vượng mà tràn ngập khắp nơi, được thổ đê phòng sẽ đi vào nề nếp. Thủy hỏa quân bình, như Bính hỏa, thủy giúp dương quang (hỏa phát sáng), có Thực Thương thông khí thì tốt đẹp trọn vẹn. Thủy thổ hỗn tạp, như Kỷ thổ, không có Giáp mộc chế sẽ trở thành họa bẩn đục nguồn nước, vì thế Nhâm thủy lấy dụng cần xem Quan tinh là kị. Hỏa vượng thì thủy bị sắc cạn, cần kim sinh cùng thủy trợ, Kiếp Ấn đồng thời sử dụng để cứu giúp. Thổ trọng thì thủy ngầm bế tắc, cần có Giáp mộc khơi thông thì thủy mới chảy tiếp được, bởi vậy hỏa thổ trọng ở bốn mùa đều là kị. Thủy lấy kim làm gốc, có kim tương sinh, nước tí tách chảy không dứt. Kim đến Tý là Tử địa, mẹ chết thì con côi, vì thế Quý thủy sinh tháng Tý Sửu cần Bính hỏa sưởi ấm, vừa cần Tân kim sinh, là cách thoát khỏi khốn cùng. Mộc có thể tiết khí thủy, thủy sinh tháng Dần Mão là lúc mộc vượng, tinh khí của thủy bị tiết hết, cho nên Dần Mão là đất thủy tử, cần có kim sinh cho mới khỏi bị phiếm lạm chẳng có chỗ quay về. Nếu là dương thủy, như Nhâm thủy vậy, kị thân nhược. Nếu là âm thủy, như Quý thủy vậy, không ngại thân nhược, đó là sự khác biệt của tính chất âm dương.

Sinh ở tháng mùa Xuân, tính chất tràn lan, phóng túng

Thủy, ba tháng mùa Đông khí hậu cực lạnh nên tính lạnh lùng hà khắc. Sang đến thời tiết mùa Xuân, được mặt trời sưởi ấm một chút, hóa thành ẩm ướt (thành sương). Khí thế tản mạn khắp nơi mà không có chốn quay về. Vậy mới nói thủy đến Xuân lệnh là đất Bệnh Tử Mộ, nơi vượng khí thoái lui, nhiều thì tràn lan, ít thì khô kiệt, tản mạn mà vô nguyên, đó là tính chất của thủy trong mùa Xuân.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Tái gặp thủy trợ, tất có thế lực làm vỡ đê phòng, nếu thêm thổ thịnh thì không còn ngại ngập lụt phát sinh. Hỷ kim sinh phù, kim không nên thịnh; muốn hỏa cứu tế, hỏa chẳng nên nhiều; thấy mộc tuy có thể góp công sức nhưng không có thổ vẫn còn lo thủy bị phân tán.

Thủy tính phiếm lạm, lại gặp thủy trợ, tính dồn thành biển lớn vô bờ, vì vậyNhâm (nhật nguyên) sinh vào mùa Xuân địa chi thấy Kiếp Nhận, thiên can thấu Tỉ Kiếp nhất định phải có Mậu thổ chế, có Mậu đê phòng không lo ngập lụt tăng thêm. Nhưng thủy ở mùa Xuân, tượng ngoài thì mãnh liệt, bên trong tính chất mềm yếu (do có vượng mộc tiết khí thủy), không có Kiếp Nhận không cần dụng Mậu. Kiến Mậu đa, càng nên dùng Giáp mộc chế, mới không để dòng nước bị bế tắc. Thủy lấy kim sinh làm gốc, ba tháng mùa Xuân mộc vượng hỏa tướng, khí thủy bị tiết khô cạn, được kim sinh phù thì dòng chảy tiếp tục đi xa, mặt khác kim có thể chế mộc, bởi vậy Xuân thủy không thể thiếu kim sinh phù được, song không nên nhiều kim quá, kim nhiều thì thủy trọc (đục). Thủy hỏa giúp nhau vì cùng chung lợi ích, vô hỏa thì thủy tính hàn, cho nên Nhâm Bính không thể xa nhau, Nhâm được Bính chiếu rọi gọi là "xuân giang thủy noãn" (mùa Xuân non sông ấm áp), khí thế dung hòa, song hỏa không nên vượng, quá vượng thì thủy cạn, lại cần Tỉ Kiếp ứng cứu. Xuân mộc đương vượng, thủy mùa Xuân kiến mộc, mộc với thủy đích thực Thương quan, nhưng thủy ít ắt bị tiết khí hết, tất lấy Ấn Kiếp mà cứu cho, (kim thủy)(2) thủy thịnh thì mộc trôi, tất lấy thổ bồi đắp gốc rễ cho mộc, lấy hỏa sưởi ấm khí của chúng, mới thành tượng "thủy mộc thanh hoa" (thủy thanh trong, mộc phồn thịnh), đó là thủy mộc Thương quan, vì thế hỷ Tài Quan vậy.

Thủy ở tháng mùa Hạ, phục tính quy nguyên (khôi phục tính chất ban đầu).

Thủy đến mùa Hạ, khí thế suy tuyệt, trở lại bản tính tĩnh tại, quay về khởi nguồn sâu trong, dụng tức hình tàng (cái dụng thì dừng lại không dùng được nữa, hình thể cũng ẩn tàng đi), đó là tính chất thủy mùa hạ.

Đương trong thời gian hạn hán, mong được Tỉ Kiên, hỷ kim sinh để trợ thể, kị hỏa vượng mà cháy khô, mộc thịnh thì cướp đoạt kỳ khí, thổ vượng ngăn cản lưu chuyển.

Lúc hạn hán, thời điểm khô cạn, thủy tại mùa hạ suy vi tuyệt cảnh, còn gặp dịp hỏa thổ hanh hao mãnh liệt hiển nhiên là khô cằn rồi. (thủy) chỉ thích kim sinh, nếu e ngại chưa đủ lại phải thêm Tỉ Kiếp trợ giúp, bởi lẽ kim vượng tuy có thể sinh thủy nhưng tháng mùa Hạ khí kim yếu ớt, không có thủy hỗ trợ kim tất bị nung chảy, lấy thủy vệ kim, lấy kim sinh thủy, tương trợ lẫn nhau làm dụng, thủy đang hình tàng thể tuyệt mới có thể tồn tại được. Đương lúc hỏa đang vượng khí, lại có thổ đồng vượng, nếu tứ trụ hỏa đa thì thủy vô nguồn sẽ bị đun cạn. Mộc thịnh sẽ tiết thủy khí, lại trợ hỏa vượng, hỏa thổ trọng thì nhanh chóng khô cạn. Tóm lại, khí bị suy tuyệt, chỉ có thể sinh trợ, không thể khắc tiết, thể nhược khí nghĩa (hình thể, khí lực đều nhược), dễ bị tổn hại.

Thủy ở tháng mùa Thu, mẫu vượng tử tướng, trong suốt bọc lấy.

Mẹ là kim, con là thủy, ba tháng mùa thu là lúc kim thần nắm lệnh, Nhâm thủy Trường sinh, mẫu vượng tử tướng, thế lực song hành, kim thủy thanh trong, trong suốt bọc bên ngoài, đó là hình thể của thủy tại mùa Thu.

Đắc kim trợ thì thanh trong, gặp thổ vượng thì hỗn trọc, hỏa đa là Tài thịnh, mộc thịnh thì tử vinh (thủy sinh mộc), trùng trùng kiến thủy lại càng phiếm lạm, điệp điệp gặp thổ, thủy được thanh bình như ý nguyện.

Mùa thu thủy lấy gạn lọc khơi trong làm quý, được kim sinh cho càng thêm thanh sạch, kim bạch thủy thanh, tú khí càng phát. Thổ trọng làm vẩn đục, như Kỷ thổ, không thể ngăn thủy, chỉ giống phù sa chảy theo dòng nước, làm bẩn đục chẳng có lợi gì. Gặp thổ làm thanh bình, như Mậu thổ, Nhâm thủy xung phá mạnh, không có Mậu thổ không thể ngăn giữ. Quý nhật chủ được Nhâm Kiếp, cùng Nhâm đồng tính, trùng trùng kiến thủy, phiếm lạm kham sao nổi, được Mậu thổ đê phòng thì thủy đi vào quỹ đạo, chính là được thanh bình vậy. Hỏa với Thủy là Tài, mộc là Thực Thương, mùa Thu thủy vượng tướng, hỏa tuy nhiều nhưng lực khắc cũng lớn, cho nên hỏa đa thì Tài thịnh. Thủy vượng thì hỷ tiết tú bớt, cho nên mộc thịnh thì tử vinh.

Thủy ở tháng mùa Đông, tư lệnh đương quyền.

Thủy trở về mùa Đông là vượng, ngày đông giá rét, chính là tính chất của Đông thủy vậy.

Gặp hỏa thêm ấm trừ hàn, thấy thổ thì hình tàng quy thuận, kim đa trái lại thành vô nghĩa, mộc thịnh biến thành hữu tình, thổ thái quá thì lâm vào cảnh khốn cùng, suối nhỏ tràn lan hỷ thổ đê phòng.

Thủy tính nhuận hạ, tượng thì sâu trong, tuy ở Đông lệnh thủy đương vượng, là lúc vạn vật ngưng nghỉ, gặp thổ thì hình tàng quy thuận, thì cái dụng của thủy không rõ ràng, thí dụ như sườn núi cao gặp nước chảy xiết, thì nước vẫn lưu độngđược trong đất, như vậy có thể nói rằng Thổ vô dụng, cho nên mùa Đông thủy vượng không thể chỉ lấy Quan Sát làm dụng được. Mùa Đông là lúc thủy vô cùng vượng, sao phiền đến kim sinh, nước lạnh kim hàn, trái lại thành vô nghĩa, không cần thiết. Vượng thủy kiến mộc tiết kỳ khí, lại là hữu tình, nhưng nước lạnh mộc đóng băng, mộc không thể sinh sôi được, duy có gặp hỏa thì tăng ấm trừ hàn, thủy được khí dương hòa mà chuyển động, mới có thể tiết tú cho mộc, tưới nhuần cho thổ, ôn nhuận cho kim, đại dụng rõ rệt hoàn toàn. Để thủy thành hữu dụng, hỏa đó là cần thiết nhất. Thời gian hàn lạnh, thủy thiểu thổ đa thì nước hồ kết băng, cả hai đều mất tác dụng, duy có lúc thế thủy tràn lan, gặp hỷ dụng thổ làm đê phòng, nhưng cũng không thể khuyết hỏa, bởi vậy Đông thủy chỉ có Tài sinh Quan là thượng cách, điều hòa khí hậu là trọng yếu nhất vậy.

Chú thích:

(1) Giáp tức là mộc, là rừng cây, nước chảy qua rừng bị chặn dòng, va vào cây tạo thành tiếng động. (ND)

(2) Từ tiên sinh chú thích (kim thủy) hẳn là Ấn Kiếp cứu giúp lúc đang Xuân làm thủy thịnh thêm, mộc chẳng còn chỗ đứng, cần thổ tài bồi, hỏa tăng sinh khí, thành tượng thủy mộc thanh hoa. (ND)

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Chính nguyệt Nhâm thủy - Tháng Giêng, Dần, Lập Xuân


Tháng giêng Nhâm thủy, tượng là Uông dương (đại dương mênh mông), chảy mãi không dừng, đã mất lệnh, cũng không có lo chảy tràn lan, là do tính thủy nắm được vậy, trước dụng Canh kim phát sinh gốc thủy, sau dụng Bính hỏa để trừ hàn khí, lại sau lấy Mậu thổ để ngăn dòng chảy, không đến nỗi bị thành đại dương mênh mông quá độ.

Nhâm thủy ở mùa sinh vượng, thì có tính xung chạy, mùa tới đầu Xuân, khí đã suy thoái, cho nên có tượng phân tán rời ra, nói Nhâm thủy không cách ly Bính Mậu làm dụng, nhưng ở Xuân Hạ, như không có Canh kim phát sinh gốc, thì có nguy cơ khô cạn, cho nên nhất định trước tiên là lấy Canh kim làm dụng, có kim tương sinh, mới lấy Bính hỏa để trừ hàn khí. Nhâm thủy trùng điệp thì dụng Mậu thổ để ngăn dòng chảy, tuy nói Canh Bính Mậu cùng dụng, tự có trước sau vậy.

Được cả 3 Canh Bính Mậu cùng thấu thiên can, là khách đào hoa, hoặc có Canh Mậu thấu, Bính sinh ở Dần, cũng chủ phú quý ân vinh, dù có một Canh thấu không có phá, không thiếu được tiến cử làm giám sát sinh viên.

Nói Canh Bính Mậu đều thấu là nói Nhâm thủy có Canh kim tương sinh, mà dụng Bính Mậu vậy, (Bính Mậu vượng thì dụng Canh kim). Dần cung có Giáp Bính tương sinh, Mậu thổ thì bị chỗ Giáp mộc chế, cho nên Canh Mậu thấu, Bính tàng ở Dần, dụng cùng Canh Bính Mậu đều thấu thì không có khác biệt. Ba tháng mùa Xuân Nhâm thủy lấy Canh kim là dụng thần chủ yếu. Không phải kim thủy quá vượng, Bính Mậu cũng không thể dụng, cho nên có Canh kim thấu xuất, không có Đinh hỏa phá Canh, không thiếu được tiến cử làm giám sát sinh viên.

Phàm ngày Nhâm không có Tỉ kiên Dương Nhận, không nhất định dụng Mậu, chuyên lấy Canh kim làm chủ, Bính hỏa là phụ tá, hoặc thấy Tỉ Kiếp Canh Tân, là tượng cực nhược hồi sinh, nên lấy Mậu thổ là chế. Mậu thấu có khoa giáp, Mậu tàng là Tú tài, càng hiển lộ ở con đường khác, mà lý sự thông đạt, nhưng mà không có tổ nghiệp, đều thuộc tính tự lập, cách này cần thấu hai phương hợp.

Tường thuật đoạn văn ở trên, ý nói lấy Canh là chủ mà dụng Bính Mậu, tháng Dần thì Nhâm thủy ở đất bệnh, dụng Mậu thổ Thất Sát, nhất định là do có Tỉ kiên Dương Nhận trợ thân, cho nên cực nhược lại thành cường, nếu không, chỉ có thể dụng Ấn, không thể dụng Sát, tức khiến cho cả 3 Canh Bính Mậu cùng thấu, dụng cũng ở Sát Ấn (Mậu, Canh), không ở Tài Sát (Bính, Mậu). Bính hỏa không luận dụng Ấn dụng Sát, đều không thể thiếu, dụng Sát không dụng Ấn, cho nên sự nghiệp do tự tay lập nên, lưỡng thấu là Nhâm thủy Tỉ kiên cùng Mậu thổ Thất Sát cùng thấu vậy, tức là ý nói có Tỉ kiên Nhận dụng Mậu thổ.

Hoặc Mậu nhiều có thấu có tàng, được một Giáp xuất can, gọi là Nhất tướng đương quan (một tướng giữ cửa thành), Quần tà tự phục (cả bầy tà khuất phục), khó mà nén cảnh rực rỡ, quyền lực không phải ít.

Chỗ này là nói biến cách. Nhâm thủy cực nhược được hồi phục cường, Mậu thổ lại nhiều là Thân cường Sát vượng, cần có Thực thần chế, là Thực thần chế Sát cách, Giáp Mậu đều là thần nguyệt lệnh đang vượng, tương chế để dụng, cho nên quyền lực không phải ít, nếu thân nhược thấy nhiều Sát, chỉ có thể lấy Canh Ấn hóa Sát, không thể dụng Giáp Thực chế Sát, tức là không luận chỗ này.

Hoặc chi thành hỏa cục, là Thủy hỏa ký tế, nhưng cả 2 không gặp thời, danh lợi đều hư, không thích trò chuyện, hứa mà không làm.

Chi thành hỏa cục, thân vượng Tài vượng, tháng Dần Giáp mộc nắm lệnh, thủy hỏa thông quan, cho nên nói là Ký Tế, tuy xã hội ở trên có thanh danh rất cao, địa vị càng cao, cuối cùng danh lợi đều hư, thì do lấy thủy hỏa cả 2 không gặp thời vậy, nhâm thủy không có căn, tiết ở vượng mộc, mộc lại sinh hỏa, cách thành Tòng Tài, cũng không phải là thượng cách, là do mất thời vậy.

Dụng Canh thì thổ là Thê kim là Tử, dụng Bính thì mộc là Thê hỏa là Tử, thì Thê hiền Tử tiếu, dụng Mậu thì hỏa là Thê thổ là Tử, là Thê hiền Tử tiếu, trăm sự đều thành.

Tháng giêng Nhâm thủy không thể cách ly khỏi Canh Bính Mậu là dụng, mà dụng Bính Mậu là Thê hiền Tử tiếu, Nhâm thủy chuyển nhược thành cường, Tài là Thê Quan là Tử, cho nên hợp ở yêu cầu vậy.

Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Là phú ông.
Thực thần nắm lệnh sinh Tài, cho nên thành phú ông. Thường Tỉ kiên, ở dưới tọa Dần mộc, thì Tỉ Kiếp bị tiết khí, chuyển mà sinh tài, cho nên Tài vượng vậy.
Ghi chú: Nhâm thủy đến Thìn, là thông căn thân khố, chuyên dụng Dần cung có Bính hỏa Tài tinh, chỗ này gọi là Nhâm kỵ long bối vậy.

Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Lục Nhâm triệu Cấn, là quan Ngự Sử.
Ghi chú: Lục Nhâm triệu Cấn cách, là lấy Dần ám hợp Hợi, Nhâm thủy đắc lộc, lấy Lộc hư thần làm dụng, tạo này cùng ở dưới tạo Phó Hằng giống nhau, mà chỉ là Ngự Sử, thì lấy thành người thầy giáo, sinh ở Bắc phương, càng có thêm ranh giới của quý vậy.

Nhâm Tuất, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Kỷ Dậu
Thường nhân.
Ghi chú: Nhật tọa Dương Nhận, là Nhâm thủy đại dương mênh mông, mà Mậu thổ bị chỗ Giáp mộc chế, nên làm người tầm thường vậy.

Kỷ Tị, Bính Dần, Nhâm Thìn, Canh Tý
Tiếc là Mậu không xuất ra can, phú mà không quý.
Ghi chú: Kỷ thổ làm đục Nhâm thủy, không có Giáp thì không thanh, Bính Tài phùng sinh đắc lộc, cho nên phú.

Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Khang Hi năm thứ 61, tháng giêng, ngày 6, giờ Dần.
Mệnh Phó Hằng: là Lục Nhâm triệu Cấn cách, lấy Dần ám hợp Hợi, lấy cung Hợi là hư Lộc trợ thân, sinh ở Bắc phương, thủy vượng đắc địa, vận hành Tài Quan vượng địa, là cách cục đặc thù vậy, định là dòng nước vàng, chinh phục nước Miến Điện, tiêu diệt Cát Nhĩ, thành tích công lao mà làm quan tới Đại Học sĩ, phong tước Trung Dũng công, khi mất được tặng hiệu Văn Trung.

Giáp Thân, Bính Dần, Nhâm Thân, Canh Tý
Càn Long năm thứ 29, tháng giêng, ngày 20, giờ Tý.
Mệnh Nguyễn Nguyên: Bính Canh xuất can, Tý Thân hội cục, chuyên dụng Thực thần sinh Tài, danh trọng Nho lâm, làm quan tới Thái Phó, mất tặng danh hiệu Văn Đạt.

Tân Mão, Canh Dần, Nhâm Thân, Mậu Thân
Đạo Quang năm thứ 11, tháng giêng, ngày 18, giờ Thân.
Mệnh Trần Bảo Châm: Nhâm thủy thông căn ở Thân, Canh Tân cùng thấu, là Kim thủy uông dương, hỉ dụng Mậu thổ, Bính hỏa là phụ tá, là Hàn Lâm, sau tới Tuần Phủ, lại có mệnh Mã Phi Dao, năm tháng ngày giờ đều giống nhau, xuất thân là Tiến sĩ, địa vị là Tuần Phủ, cả hai tạo giống nhau.

Giáp Dần, Bính Dần, Nhâm Tý, Quý Mão
Hàm Phong năm thứ 4, tháng giêng, ngày 14, giờ Mão.
Mệnh Hoàng Thiệu Ki: Dụng Thực thần sinh Tài, làm quan Đề Học Sử.

Mậu Thìn, Giáp Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Dần
Đồng Trị năm thứ 7, tháng giêng, ngày 13, giờ Dần.
Mệnh Nghê Tự Trùng: Chỗ này cũng biến cách, Nhâm thủy tuy có Tỉ kiên xuất cann, thông căn ở Thìn khố, không được là vượng, nhưng trong Nhâm Tuất, Nhâm Dần có kẹp Hợi Tý Sửu, khí toàn Bắc phương, Nhâm được Hư thần trợ giúp, tự có tượng Uông dương , cho nên lấy Giáp mộc chế Sát làm dụng, chấp chưởng binh quyền, địa vị sắp xếp là Đô đốc.

Mậu Thìn, Giáp Dần, Nhâm Tuất, Bính Ngọ
Đồng Trị năm thứ 7, tháng giêng, ngày 13, giờ Ngọ.
Mệnh Thi Tái Thôn: Chi thành hỏa cục, trụ không có Tỉ Ấn, Tòng Tài mất lệnh, là phú ông mà không trọn, danh lợi đều hư.

Ất Hợi, Mậu Dần, Nhâm Dần, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ nhất, tháng giêng, ngày 4, giờ Hợi.
Mệnh Tưởng Nhạn Hành: Mậu thấu Giáp tàng, Ất mộc không thể chế Sát, vận hành Tây Bắc, Giáp Mậu đều không đắc địa, có thể là then chốt, mà phú quý thì không thể đo lường hết, là do ở đại vận không trợ giúp vậy.

Bính Tý, Canh Dần, Nhâm Dần, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ 2, tháng giêng, ngày 10, giờ Hợi.
Mệnh Mã Phúc Tường: Thời thượng Quy Lộc, chuyên dụng Bính hỏa Tài tinh, Kim Thanh Ngọc Chấn phú nói: Lộc phùng Tài Ấn, thanh niên cùng bước lên Khoa bảng là vậy, địa vị là Đô đốc.

Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 8, tháng giêng, ngày 15, giờ Tuất.
Mệnh Trương Tông Xương : là Lục Nhâm triệu Cấn cách, Dần Ngọ lại hội cục, Tài tinh ám vượng, Tỉ trọng thấy Tài, Tài như nước chảy, địa vị là Đô đốc, có binh lính nhiều, Tài nhiều, được bên vợ sủng ái, danh giá, hoặc nói giờ Mậu Giáp, lại nói giờ Kỷ Dậu, lại nói giờ Nhâm Dần, nói đủ giờ, theo bản thân thì là : cũng không tự biết lúc đó, nhưng biết mùa rực rở mới lên, nên lấy giờ Tuất là vậy.

Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Quý Mão.
Quang Tự năm thứ 8, tháng giêng, ngày 5, giờ Mão.
Mệnh Thái Nhạc: Chi tụ Dần Mão Thìn Đông phương, thấy Ngọ kẹp Tị quý, là Phượng hoàng củng quý cách, thủy mộc thanh hoa, tiếc là mộc thịnh nắm lệnh, tiết khí nhâm thủy, địa vị tới Đô đốc, yểu thọ, năm chỉ có 35 tuổi.

Giáp Thân, Bính Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 10, thanng1 giêng, ngày 16, giờ Dần.
Mệnh Chu Tác Dân: Giáp Bính cùng thấu, Nhâm thủy thông căn ở Thân Thìn, lại có Canh đắc lộc sinh cho, thân vượng gánh nỗi tài, Dần Thìn cả hai kẹp Mão quý Thực thần thành phương để sinh Tài, cách cự phú, là đại gia Ngân Hàng.

Giáp Thân, Bính Dần, Nhâm Tý, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 10, tháng 2, ngày 6, giờ Tuất.
Mệnh Tương Tác Tân: Giáp Bính cùng thấu, Canh kim xuất can, địa vị là Bộ trưởng Lục quân.

Mậu Tý, Giáp Dần, Nhâm Tý, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ 13, tháng 12, ngày 30, giờ Hợi.
Mệnh Lý Trạch Nhất: Dần cung Giáp Mậu cùng thấu, Thực thần chế Sát là dụng, sinh ở sau tiết Lập Xuân 7 ngày, mộc vượng thổ sụp, cần hành phù trợ đất Sát.

Mậu Tuất, Giáp Dần, Nhâm Dần, Kỷ Dậu
Quang Tự năm thứ 24, tháng giêng, ngày 18, giờ Dậu.
Mệnh Trương Hiếu Nhược: Giáp mộc xuất can, chế trụ Mậu Kỷ Quan Sát, chuyên lấy giờ Dậu kim là Chính Ấn làm dụng, hưởng phúc ở trên che chở, Tị vận năm Ất Hợi bị đâm mà chết, Dần Ngọ Tuất năm thấy Tị là Vong Thần, Hợi là Kiếp tối kỵ hợp, Tị Dậu Dần Hợi đều là hợp, tuế vận lại xung, không đắc lệnh cuối cùng mệnh hết vậy.

Bính Ngọ, Canh Dần, Nhâm Ngọ, Nhâm Dần.
Quang Tự năm thứ 13, tháng giêng, ngày 14, giờ Dần.
Mệnh vua nhà Thanh, Tốn Đế (Tuyên Thống, niên hiệu của vua Phổ Nghi thời Thanh, Trung Quốc, 1909-1911 ): Bính Canh Nhâm Tỉ cùng thấu, khôngt hể Tòng Tài, Tỉ Ấn lại đều là vô căn, chỗ này gọi là loại hóa khí mà không thành cục, loại Ấn thụ mà không thành Ấn, hành hạ thái quá, lực ký gửi quá xa cách phụ mẫu, mệnh đi đến làm con thừa tự vậy, chi thành hỏa cục, thủy hỏa thất thời, danh lợi đều hư.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Nhị nguyệt Nhâm thủy - Tháng 2, Mão, Kinh Trập


(Tháng 2 hàn khí đã hết, nước chảy trong xanh sâu thẩm, không thể dụng hỏa, chuyên lấy Mậu thổ làm bờ đê, gốc Tân phát sinh)

Giữa Xuân Nhâm thủy ở tử địa, mộc thần đang vượng, tiết nhược khí Nhâm thủy, không thể không có Canh Tân làm dụng, thân nhược không thể đảm nhận Tài, lại thêm Xuân nước thủy ấm, không lấy điều hậu làm cần thiết, cho nên không dụng Bính hỏa, nếu Tỉ kiên nhiều, Xuân thủy tản mạn, thì dụng Mậu thổ, nói chuyên lấy Mậu thổ gốc Tân phát sinh là dụng Ấn hóa Sát vậy.

Mậu Tân lưỡng thấu, khoa giáp có chắc chắn, hoặc Mậu thổ xuất can, Tân tàng ở Dậu, có thể ân phong, bất chỉ dừng ở tiến cử giám thị sinh viên, hoặc Mậu Tân lưỡng tàng, không có Giáp Đinh thấu can, định chủ Tú tài.

Tháng 2 Nhâm thủy lấy Mậu Tân làm chính dụng, kỵ Giáp phá Mậu, kỵ Đinh khắc Tân, cho nên không có Giáp Đinh xuất can thì không mất cơm áo xinh đẹp, hoặc không có Mậu Tân có Canh, phú quý càng thấy đại phú, Canh tàng là tiểu phú.

Chỗ này là nói không có Tân dụng Canh, tháng 2 là Thủy mộc Thương quan, mộc vượng thủy suy, không thể không có Ấn, không có Tân dụng Canh, lý lẽ giống nhau, nhưng thấy Canh kim, lấy phú là đa số, có Mậu, thì kiêm cả quý vậy.

(Hoặc chi thành mộc cục, Canh kim thấu can, Khoa giáp là có chuẩn, Canh tàng thì hiển dụng ở con đường khác)
Chỗ này gọi là có bệnh là quý, chi thành mộc cục, tiết khí quá nặng, được Canh kim chế Thương sinh Nhâm thủy, bệnh nặng dược nặng, được khoa giáp ở chi, cũng không sợ hiển đạt bằng con đường khác, đợi lấy nồng hậu vậy.

Hoặc chi có mộc sinh nhiều hỏa, là mộc thịnh hỏa viêm, nên lấy Tỉ kiên trợ thân, thì một giọt nước có thể tưới thấm vạn dặm, phú quý không thể nghi ngờ, hoặc mốt lúc có mộc nhiều, độc nhất nhật can có một Nhâm, lại không có Canh kim phát sinh, Nhâm thủy tiết nhược, dù là nho sĩ cũng nhờ người độ nhật, không có hỏa dụng Nhâm, là thường nhân.

Mộc thịnh cần dụng Canh kim, mộc vượng sinh hỏa, nên bao gồm lấy cả Tỉ kiên, bệnh nặng được dược, phú quý không nghi ngờ, một lúc có mộc nhiều, đơn độc nhật can có một Nhâm, không có Tỉ Ấn làm dụng, Nhâm thủy bị tiết nhược, là hèn yếu không có năng lực, là Thương Quan tú khí, không mất vẻ nho sĩ, nhật chủ không có lực, cho nên không có thành tích, dựa vào người khác mà độ nhật. Mộc thịnh có hỏa, cần lấy Nhâm thủy làm chủ, Canh Tân làm phụ tá, không có hỏa chuyên dụng Canh Tân, nếu mộc nhiều không có hỏa mà dụng Nhâm thủy, không có bệnh thì sao mà dụng dược thành, là người bình thường mà thôi.

Hoặc Tỉ kiên trọng nặng, lại cần Mậu thổ, sách nói: Thổ ngăn thủy chảy là phúc thọ đầy đủ, nếu Mậu không thấy, tên là Thủy phiếm mộc phù, cả đời cơ cực, lại hành thủy vận, là bỏ mình ở thủy, hoặc Giáp Ất trọng nặng không có Tỉ kiên. Chỗ này là dựa vào người khác mà sống, hoàn toàn không có thành tựu, nếu thấy Canh Tân, có thể miễn đói rách.

Tiết này bản sao bỏ mất chìa khóa căn bản, nên ở tiết tháng 10 Nhâm thủy bên dưới, tạm thời để tham khảo.

Tóm lại, thủy thịnh không thể không có Mậu, mộc thịnh không thể không có Canh kim, hỏa thịnh không thể không có Nhâm, cùng với nhu cầu để định lấy dụng, Giáp Ất nặng không có Tỉ kiên, tương xứng với không có gặp Canh Tân, nếu thấy Canh Tân, tương xứng với thấy Tỉ kiên.

Phàm tháng 2 Nhâm thủy, trước dụng Mậu sau dụng Tân, lại sau cùng là dụng Canh kim. Tổng kết đoạn văn ở trên.

Mậu Ngọ, Ất Mão, Nhâm Tý, Canh Tý
Hàm Phong năm thứ 8, tháng 2, ngày 6, giờ Tý.
Mệnh Khang Hữu Vi: Thủy vượng thấu Canh, là thủy mộc Thương quan bội Ấn, hai Tý xung Ngọ, Tý Mão tương hình, Mão Ngọ lại phá, xung kích động làm hỏng hết, xuất ra ở thiên tính, Mậu thổ ngăn thủy, là phúc thọ lưỡng toàn, thủy mộc thanh hoa, Khoa giáp ở vận Quý Mùi, năm Mậu Tuất, là năm gây ra đảo chính đổi mới, Dậu vận năm Mậu Ngọ, lại gây ra họa khôi phục Hoàng đế, Nhâm vận năm Đinh Mão mất, thọ 70 tuổi.

Canh Ngọ, Kỷ Mão, Nhâm Dần, Canh Tuất
Đồng Trị năm thứ 9, tháng 2, ngày 6, giờ Tuất.
Mệnh Lý Hậu Cơ : Hai Canh xuất can, Dần Ngọ Tuất thành cục, là Tài vượng sinh Quan, Quan Ấn tương sinh, tiếc là khôg có Nhâm thủy Tỉ kiên, nhưng lấy phú quý đầy đủ vậy, địa vị là Đô đốc tỉnh Phúc Kiến.

Quý Dậu, Ất Mão, Nhâm Tuất, Ất tị
Đồng Trị năm thứ 2, tháng 2, ngày 13, giờ Tị.
Mệnh Ngô Đổng Khanh: Tháng 2 Nhâm thủy tiết nhược, chuyên dụng Dậu kim, thủy mộc thanh hoa, nên là Văn học từ thần, nghịch hành vận ít tốt.

Canh Thìn, Kỷ Mão, Nhâm Dần, Tân Sửu
Quang Tự năm thứ 6, tháng 2, ngày 4, giờ Sửu.
Mệnh Tương Bang Ngạn: Dần Mão Thìn khí toàn Đông phương, mộc thịnh dụng Canh, giờ phùng Tân Sửu, Kiếp ấn trợ thân, thủy có dư khí, Thương quan vượng, tự có thể sinh Tài, vận hành Nam phương vận Nhâm Ngọ Quý, địa vị là Tổng đốc Ngân hàng tỉnh Sơn Đông, tích lũy giúp đỡ liên tục vạn ngàn lần. Mùi vận hội Mão xung Sửu, bị Trương Tông Xương phái người ám sát, tài sản bị người khác lấy mà qua đời.

Canh Thìn, Kỷ Mão, Nhâm Dần, Đinh Mùi
Quang Tự năm thứ 6, tháng 2, ngày 4, Giờ Mùi.
Mệnh Vương Lai: Cùng tạo họ Tương hơi khác ở giờ sinh, phú quý đều ít, là do lấy Đinh hỏa thương Canh vậy, địa vị Thanh tra Bộ Tài chính.

Ất Dậu, Kỷ Mão, Nhâm Ngọ, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 11, tháng 2, ngày 12, giờ Tuất.
Mệnh Lý Cảnh Lâm: Tài vượng sinh Quan, dựa vào ở chỗ chi năm có Dậu Ấn, tổ ấm hậu hĩ, sự nghiệp cả đời, nhờ ở trên đến che chở, địa vị là Đô đốc, hoặc nói là giờ Canh Tý, không biết giờ nào đúng.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Tam nguyệt Nhâm thủy - (Tháng 3, Thìn, Thanh Minh)


(Tháng 3 Mậu thổ nắm quyền, e rằng có bế tắc dòng nước sông biển gặp nạn bị ngăn cản, trước dụng Giáp khai thông mùa thổ, sau dụng Canh để phát sinh gốc thủy)
Tháng Thìn là thủy gặp mộ địa, Mậu thổ thừa vượng, không nhất định có can thấu Mậu thổ vậy, vô hình trung tự có ngăn cản thì gặp tai họa, cho nên nhất định dụng Giáp khai thông, sau là lấy Canh kim phát sinh gốc Nhâm thủy, Canh Giáp lấy địa vị cách ngôi, không gặp khắc chế, đều đắc dụng mới tốt.

Giáp Canh đều thấu, khoa giáp quan hiển lộ, Giáp thấu Canh tàng, cũng là phẩm cách Tú tài, gọi là Bất thiếu (không thiếu), Giáp tàng ở Dần Hợi, có Canh định chủ là học trò, như Quý xuất ra sinh Giáp, chức cao ở con đường khác, đơn độc có Giáp tàng ở chi, bất quá chỉ là nhất phú, đơn độc Canh tàng ở chi, bất quá là thường nhân, không có Giáp thì cương bạo, không có Canh thì cố chấp.

Giáp Canh hỗ trợ lẫn nhau làm dụng, không thể thiếu một, có Quý sinh Giáp thì nói là Giáp Quý cùng thấu vậy. Mậu thổ là Thất Sát, ám vượng mà không xuất can, cho nên Giáp tàng chi cũng có công khai thông thổ, như Mậu thổ xuất can, thì không phải Giáp thấu, không thể khắc chế, cùng thấy ở dưới Tiết Chi thành tứ khố. Tháng 3 Nhâm thủy đến ở Mộ địa, khí thế suy kiệt, không có Giáp, thì Nhâm thủy bị hỗn trọc mà gặp tai họa bị bế tắc, tính nhất định cương bạo. Không có Canh, Nhâm thủy bị đình trệ mà thành khô cạn, tính nhất định là cố chấp, chỗ này đều cầm ở thiên phú vậy, thủy mộ khố khônng phải vượng, cho nên lấy Giáp Canh cùng dụng thành nguyên tắc, nếu chi thấy Tý Thân, hội Thìn thành thủy cục, thì nhược chuyển thành vượng, trái lại là dụng Tài Sát lại nên phân biệt mà luận.

Hoặc giờ xuất ra Đinh hỏa, hóa Nhâm thành mộc, sau dụng Canh Tân, có hỏa không có thủy, là thường nhân.

Tháng 3 mộc có dư khí, Đinh Nhâm tương hợp, nguyệt viên phùng Thìn, có khả năng hóa mộc, phàm hóa cách lấy cái Ta sinh hóa thần làm dụng, hóa mộc cần lấy thủy làm dụng. Người thời nay lại nói dụng Canh Tân, nguyên mệnh có thủy, mà tháng Thìn thì thủy đến Mộ địa, dụng Canh Tân phát sinh gốc thủy vậy, cho nên nói có hỏa không có thủy là thường nhân, chỗ này cùng với Thân nhược mà Tài nhiều, lấy Ấn Kiếp trợ thân, phép xem không có khác nhau, không nhất định lấy hóa cách mà luận vậy.

Tháng 3 hỏa khí hướng vượng, Nhâm thủy suy kiệt, Đinh Nhâm hợp, trợ hỏa mà không trợ thủy, không dụng Canh Tân sinh trợ, không thể gánh nỗi Tài, tức là lấy hóa mộc luận, cũng tối kỵ hỏa cướp lấy khí mộc, cho nên có hỏa không có thủy, quyết là người tầm thường vậy.

Hoặc chi thành tứ khố, không có Giáp thấu khắc chế, gọi là Sát trọng thân khinh, suốt đời gặp tổn hại, được 2 Giáp thấu can, không thấy Kỷ thổ, định là chủ phú quý, Nhâm thủy lấy lưu thông làm quý, chi thành Tứ Khố, thì bế tắc quá nặng, thiếu Giáp khai thông, sao mà không hại, mùa gặp thổ vượng, thấy Kỷ thổ xuất can, đề phòng Giáp tòng Kỷ mà hóa, mất dụng chế Sát, Mậu Kỷ cùng thấu mà Giáp tòng Kỷ hợp, cũng luận giống như vậy, Thổ vượng nắm quyền, cho nên lấy được 2 Giáp là phú quý.

Phàm mộc vượng dụng kim, cả đời mệnh có dụng, thủy vượng thấy nhiều Canh kim chính là người vô dụng, cần Bính chế thì mới tốt.

Tổng kết đoạn văn ở trên, chi thấy Dần Mão Thìn thành phương, cần có Canh kim chế, Thân Tý Thìn thành cục, lại không có lý lẽ dụng Canh kim, cần lấy Mậu thổ chế, như thấy Canh kim xuất can, lại cần được Bính hỏa chế kim, ở trên nói tháng 3 Nhâm thủy, không cách ly khỏi Giáp Canh, đề phòng ban đầu học tập gò bó, tường thuật lại biết.

Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Nhâm Thìn, Giáp Thìn
Thực thần chế Sát cách, mệnh then chốt cơ mật.
Ghi chú: Tạo này có 2 can không tạp, chi tụ 4 Thìn, lấy Giáp mộc khai thông thổ làm dụng, Thực thần chế Sát cách vậy.

Canh Tý, Canh Thìn, Nhâm Thân, Tân Hợi
Là Nhuận Hạ cách, mệnh học đạo.
Ghi chú: Nhuận Hạ thất thời, vận hành Nam phương, cho nên thành mệnh học đạo.
Lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Canh Ngọ, Canh Thìn, Nhâm Thân, Kỷ Dậu
Đồng Trị năm thứ 9, tháng 3, ngày 6, giờ Dậu.
Mệnh Cố Hinh Nhất: Tháng 3 Mậu thổ ám vượng, dụng Canh kim tiết thổ sinh thủy làm dụng, chi thấy tam hình, năm Mậu Dần tháng 5 ngày 27 gặp ám sát, ở trong Tuất vận, thọ 69 tuổi.

Bính Tý, Nhâm Thìn, Nhâm Thân, Ất Tị
Quang Tự năm thứ 2, thanng1 4, ngày 11, giờ Tị.
Mệnh Vương Khắc Mẫn: Chi tụ thủy cục, sinh ở trước tiết Lập Hạ 1 ngày, Bính hỏa tiến khí, giờ gặp Tị cung, Bính hỏa đắc lộc, khí tiếp tháng 4 (xem thêm tháng 4 Nhâm thủy) là cách cục Thương quan sinh Tài, địa vị là Bộ trưởng Tài chính.

Lại có mệnh La Quân Vĩ :
Bính Thân, Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Ất Tị
Sinh ở trước tiết Lập Hạ 7 ngày, chính là gặp mùa Mậu thổ vượng, phú mà không quý, là do thổ vượng không có Giáp, thì không thể lấy quý, không có so với tháng 4 có Bính hỏa nắm quyền, chuyên dụng Nhâm thủy, thấy Thân Tý Thìn thành cục là đại quý vậy.

Ất Dậu, Canh Thìn, Nhâm Dần, Kỷ Dậu
Quang Tự năm thứ 11, tháng 3, ngày 3, giờ Dậu.
Mệnh Tôn Phó Phương: Ất Canh Thìn Dậu đều hợp, thủy ít kim nhiều, tượng hình thể đầy đủ, Dần cung tàng Giáp phá Mậu, Bính chế Canh kim, địa vị là Tổng tư lệnh liên quân 5 tỉnh, rút cuộc lấy Kỷ thổ tiết Bính sinh kim, lại là hỗn trọc Nhâm thủy, chỉ được 5 năm Bính vận, như đóa Phù Dung sớm nở tối tàn mà thôi.

Quý Tị, Bính Thìn, Nhâm Thân, Quý Mão
Quang Tự năm thứ 19, tháng 2, ngày 10, giờ Mão.
Mệnh Dương Hạnh Phật: Thủy nhiều thấy Canh, chuyên dụng Bính hỏa, tiếc là Tài Kiếp cùng lộ ra, lấy Mão mộc tiết Quý sinh Bính để cứu, vận hành Bắc phương Kiếp địa, Tý vận năm Quý Dậu, bị đâm mà chết.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Tứ nguyệt Nhâm thủy - Tháng 4, Tị, Lập Hạ

(Tháng 4 cung Tị, Bính hỏa nắm quyền, Nhâm gặp chỗ hỏa thổ táo khô, chuyên lấy Nhâm thủy, là tỉ trợ giúp thân cường, sau là lấy tân kim để phát sinh gốc thủy, cùng kỵ có Bính hỏa hợp hóa, lại lấy Canh kim làm phụ tá).

Xuân Hạ Nhâm Quý, khí gặp hưu tù, nhưng Xuân thủy cần dụng Canh kim, Hạ thủy cần dụng Tỉ trợ giúp, ba tháng mùa Xuân mộc vượng, bị tiết khí quá nặng, dụng Ấn chế Thực để phù thân, ba tháng mùa Hạ thì hỏa thịnh, Tài vượng thân nhược, dụng Tỉ Kiếp phân Tài để trợ giúp thân, là do khí nắm lệnh khác nhau vậy, sau lấy Tân kim phát sinh gốc thủy, kỵ có Bính hợp hóa, tháng 4 hỏa vượng, Bính Tân quyết không thể hóa thủy, thấy Bính hợp khứ dụng thần, mất dụng phát sinh gốc, cho nên lại lấy Canh kim làm phụ tá vậy, nếu Tân thấu Bính tàng, tất cả đều đắc dụng, tức là không nhất định lấy Canh kim phụ tá vậy.

Nhâm Tân cùng thấu, khoa giáp có chắc chắn, hoặc khứ Tỉ lưu Kiếp, Quý Tân xuất can, lại thêm Giáp thấu, định là tiến cử làm sinh viên, không có Giáp là người bị tách ra khỏi cánh cửa phú quý, trăm sự không thể thừa nhận.

Tháng 4 hỏa vượng nắm lệnh, lấy Tỉ Ấn dụng cả hai là nguyên tắc, như Đinh hỏa xuất can, hợp khứ Nhâm thủy Tỉ kiên, thì nên dụng Quý thủy, tóm lại tháng 4 Nhâm thủy, không thể chuyên dụng Ấn, hỏa vượng kim bị nấu chảy, cần lấy Tỉ Kiếp để trợ giúp, thủy tuyệt không có gốc, cần có Ấn thụ tương sinh, là hỗ tương cứu trợ, mới là thượng cách, dụng Quý Tân lại cần có Giáp, Bính có thể hợp Tân, lấy Quý để cứu, Tị cung có Mậu thổ lâm quan, đề phòng hợp Quý, lại cần có Giáp để cứu vậy, không có Giáp thì Mậu Quý tương hợp, trái lại là hóa thành Tài, mùa gặp hỏa vượng, tất nhiên là hóa hỏa, Tân kim lại bị chỗ Bính hỏa chế, Tài vượng mà thân nhược, là dựa vào người khác để sống qua ngày, là người bị tách ra khỏi cánh cửa phú quý, tự bản thân không thể thừa nhận vậy.

Như hỏa nhiều thủy ít thì lấy khí mệnh Tòng Tài mà luận, là vì do vợ trao cho giàu có. Quý thấu không có Nhâm, chủ có tàn tật.

Tiếp ở trên nói Quý Tân xuất can, không có Giáp chế Mậu, là Tài đa thân nhược, nếu hỏa nhiều thủy ít, không có Canh Tân Ấn tương sinh, thủy đến tuyệt địa, lấy khí mệnh Tòng Tài mà luận, nếu địa chi thấy 1 chữ Sửu, là Tị Sửu hội cục, Canh kim tức có sức sống, Nhâm Quý có gốc, không lấy tòng luận, chỗ này cùng tháng Hợi nguyệt thấy Mùi là hội cục, mộc hữu sức sống, lý lẽ giống nhau vậy, ắt phải cần chú ý, Quý thấu không có Nhâm, là giọt thủy bị nấu khô cạn, là mệnh tàn tật chết yểu vậy.

Hoặc tứ trụ nhiều kim, là phùng sinh tọa thực, Nhâm thủy biến nhược thành cường, dụng Tị trong có Mậu thổ chế, khoa giáp khác đường đều hiển lộ, như thấy một Giáp tàng ở Dần, cùng Tị là tương hình, gọi là Thổ mộc giao chiến, là trẻ em bị bệnh tiêu hóa không tốt (bệnh Cam tích). Người lớn ẩn bệnh, dù nhiều kim cũng sợ hỏa vậy, danh lợi đều hư, cuối cùng không có khởi đầu.

Phùng sinh tọa thực là nói chi thấy Thân Tý, Nhâm thủy trường sinh, Canh kim đắc lộc vậy, như chi thấy Tị Dậu Sửu kim cục, cũng là Tọa thực, tháng 4 hỏa vượng thủy suy, dụng Tân Nhâm, là chính cách, tứ trụ kim thủy trùng điệp, Nhâm thủy biến nhược thành cường, dụng Tị cung có Bính Mậu, là biến cách, giống Kiếp Ấn hóa Tấn cách (tiến cách), xem Tiết tháng 4 Quý thủy, là tạo cực quý, chỗ quan trọng là ở Mậu thổ ngăn dòng chảy thủy, như thấy chữ Dần, là Giáp mộc đắc lộc, khắc chế Mậu thổ, là Dần Tị Thân tam hình đều thấy, gọi là Thổ Mộc giao chiến, dụng thần bị thương, mùa gặp hỏa vượng nắm lệnh, kim tuy nhiều, chịu chế ở hỏa, không thể chế Giáp để cứu giúp, cho nên nói tuy nnhiều kim cũng sợ hỏa là vậy, chủ danh lợi đều hư.

Hoặc nhiều Giáp Ất, nên dụng Canh kim, Canh thấu là quý, Canh tàng là thường nhân.

Mộc nhiều tiết khí thủy, cần lấy Canh kim để cứu, nhưng dụng Canh không thể không có Nhâm Quý Tỉ Kiếp, nếu không, Canh bị hỏa hình, không thể phá Giáp Ất, văn tự giản lược, học giả nên hội ý.

Hoặc tứ trụ hoàn toàn không có Đinh hỏa, thấy nhiều Nhâm Quý, là thông minh hiển đạt, chi thành thủy cục là đại quý.

Tháng 4 hỏa vượng thủy tuyệt, chuyên dụng Tỉ Ấn, thấy Đinh hỏa hợp Nhâm trợ giúp hỏa, thấy Mậu thổ hợp Quý phá Nhâm, đều là kỵ vậy, không có Đinh mà thấy nhiều Nhâm Quý, tuy không có Canh Tân kim, cũng là người thông minh hiển đạt, chi thành thủy cục, Nhâm thủy biến nhược thành cường, chuyên dụng Bính Mậu đang vượng, giống ở trên Phùng sinh tọa thực, là cách đại quý.

Có Canh không có Nhâm Quý, là người bôn ba, hạ tiện, không có Nhâm thủy Tân kim là bần tiện, nông cạn, duy có hợp ngoại cách là lấy quý.

Tổng kết đoạn văn ở trên, tháng 4 Nhâm thủy, lấy Ấn Tỉ tương hỗ cứu giúp là dụng, có Ấn không có Tỉ Kiếp, hỏa vượng thì kim bị nấu chảy, Ấn thụ Tỉ Kiếp đều không có, là cục thiên khô, duy có hợp ở Tòng Tài loại ngoại cách thì mới lấy quý mà thôi.

Nhâm Ngọ, Ất Tị, Nhâm Thân, Kỷ Dậu
Tài vượng sinh Quan, làm quan Thượng Thư.
Án nhâm thủy lâm thân, tự tọa trường sinh, hựu hữu tị dậu hội cục, canh kim tương sinh, dụng tị cung mậu thổ, cách thủ tài quan, vận nghi kim thủy, nhân niên chi phùng ngọ, ất kỷ xuất kiền, đồng kiếp ấn hóa tấn cách nhi bất thuần túy dã.

Nhâm Dần, Ất Tị, Nhâm Ngọ, Ất Tị
Tổng đốc.
Ghi chú: Tạo này lấy Thai Nguyên là Bính Thân, Nhâm thủy thông căn, Tài Quan nắm lệnh, vận hành kim thủy, địa vị là Tổng Đốc, Dần Tị Thân tam hình, Thân cung Canh Nhâm đắc lực, Dần Tị cung Bính Mậu đang vượng, Sách viết: Tam hình đắc dụng, uy trấn biên cương, là chỗ này vậy.

Giáp Tý, Kỷ Tị, Nhâm Thân, Mậu Thân
Vũ Trạng nguyên.
Ghi chú: Tạo này có chi là Thân Tý bán thủy cục, Mậu thổ xuất can, lấy Thực thần chế Sát làm dụng, Kỷ thổ hợp Giáp là bệnh, hỉ vận Nhâm Thân, Quý Dậu trợ giúp, cho nên quý mà tựu ở vũ chức.

Quý Mão, Đinh Tị, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Chủ bộ.

Bính Thìn, Quý Tị, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Thổ mộc giao chiến, mệnh cô bần cả đời.
Ghi chú: Hai tạo này có Nhâm Quý mà không có Canh Tân, Tỉ Ấn không được đầy đủ, không lấy vậy.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa cặn bản vậy.

Quý Dậu, Đinh Tị, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ
Đồng Trị năm thứ 12, tháng 5, ngày 5, giờ Ngọ.
Mệnh Hà Phong Lâm: Tị Dậu hội cục, Quý thủy xuất can, chuyên dụng Quý Tân, địa vị là tùy tùng Thượng Hải, hộ vệ Quân đoàn trưởng.

Tân Sửu, Quý Tị, Nhâm Tý, Canh Tý
Quang Tự năm thứ 27, tháng 4, ngày 17, giờ Tý.
Mệnh Trương Học Lương: Kiếp Ấn hóa Tấn cách, là tiến tới hóa thổ vậy, tháng 4 hỏa thổ đang vượng, mà kim thủy phản nhược thành cường, cách cục hiếm thấy, giống ở Vĩnh Nhạc, sự nghiệp cả đời, xuất ra ở sự che chở của bề trên (xem ở Tiết thàng 4 Quý thủy), hỏa thổ là thần đang vượng, biến kỵ thành hỉ, đại quý không nghi ngờ, tiếc là vận hành Bắc phương, hỏa thổ không đắc địa, số không khỏi bị vui sướng vậy (tạo này có nói giờ Kỷ Dậu, nơi tiếp cận Trương Đàm, họ Tằng gặp hỏi, đích xác là giờ Canh Tý).

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Ngũ nguyệt Nhâm thủy - Tháng 5, Ngọ, Mang Chủng

(Tháng 5 Đinh vượng Nhâm nhược, lấy Canh làm chủ, Quý là phụ, không có Canh không thể giữ gốc, không có Quý không thể tổn thương Đinh)

Tháng 4, 5 Nhâm thủy, cùng là một lý mà thôi. Tháng 4 có Bính Mậu lâm quan, cho nên lấy Nhâm Tân làm chủ, tháng 5 Đinh Kỷ đang vượng, cho nên lấy Quý Canh làm chủ, tóm lại Tài tinh nắm lệnh, lấy Tỉ Kiếp phân Tài là dụng chủ yếu, Ấn thụ tương sinh làm thần phụ tá, tháng 4 đề phòng Mậu hợp Quý, cho nên trước dụng Nhâm, tháng 5 đề phòng Đinh hợp Nhâm, cho nên đầu tiên dụng Quý, lý là một vậy, không bị hóa hợp, đều có thể xem dụng.

Canh Quý lưỡng thấu, khoa giáp có chắc chắn, Canh Nhâm lưỡng thấu, có tài lược, có quyền vị, có Canh không có Quý là thường nhân.

Canh Quý hoặc Canh Nhâm cùng thấu, đều là lấy quý, có Canh không có Quý, có phụ tá mà thiếu dụng chủ yếu, hỏa vượng thì kim nung chảy, Canh không thể tự tồn tại, lý lẽ cùng tháng 4 là giống nhau.

Hoặc chi thành hỏa cục, hoàn toàn không có kim thủy, không lấy Tòng Tài luận, gọi là Tài đa thân nhược, là Phú ốc bần nhân, hoặc mộc nhiều có hỏa không có thủy, là mệnh tăng đạo.

Tháng 5 Đinh hỏa nắm lệnh, Nhâm thủy là can dương, tính dương là cương, không thể tòng theo âm, là Tài đa thân nhược vậy, nhưng thuyết này không thể chấp câu nê, như Nhật nguyên Nhâm Ngọ, Đinh hỏa xuất can, hóa mộc tòng theo hỏa, mấu chốt của Bát pháp ở Tiết Hóa Tượng viết: Nhâm sinh tháng 5 thủy vô căn, là khí mệnh tòng Ngọ trong có Đinh hỏa, Đinh cùng Nhâm hợp như là vợ chồng, chỗ này là Phục tượng vậy, có thể thấy không phải không có thể tòng, nhưng dương tòng theo âm là cách không thuần, không luận là thượng mệnh mà thôi, mộc nhiều tiết nhược Nhâm thủy, lại không phải tòng cách, là mệnh tăng đạo.

Tóm lại, Tân kim là dụng đứng đầu rõ ràng, Canh kim là sau.

Tổng kết đoạn văn ở trên, Tân kim là dụng đứng đầu rõ ràng, mà ở trên nói lấy Canh làm chủ, là sợ Đinh hỏa tổn hại Tân vậy, tóm lại Canh Tân Nhâm Quý hỗ tương nhau mà dụng, hợp hóa thì tổn thương dụng thần, lý lẽ giống ở tháng 4.

Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Quý Mão
Canh Nhâm lưỡng thấu, là Tài vượng sinh Quan, quan Thượng Thư.

Đinh Dậu, Bính Ngọ, Nhâm Dần, Giáp Thìn
Thái Thú.
Ghi chú: Hai tạo ở trên đều là Tài vượng sinh Quan dụng Ấn, không phải là Tài Quan cách vậy.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa căn bản.

Tân Mùi, Giáp Ngọ, Nhâm Thìn, Bính Ngọ
Đồng Trị năm thứ 10, tháng 5 , ngày 3, giờ Ngọ.
Mệnh Trần Cẩm Đào: Chuyên dụng Tân kim, Thìn Ngọ kẹp Tị, Nhâm Quý Tài Lộc cùng ngôi, địa vị là Tổng trưởng Tài chính, nói chung thấy Nhâm Quý không thấu, là cách cục không đầy đủ, là Tài đa thân nhược, không khỏi là chỗ Tài bị vây khốn, năm Kỷ Mão gặp bắn lén mà chết, thọ 69 tuổi.

Đinh Hợi, Bính Ngọ, Nhâm Dần, Kỷ Dậu
Quang Tự năm thứ 13, tháng 4 nhuận, ngày 15, giờ Dậu.
Mệnh Ngũ Triêu Xu: Chuyên dụng Tỉ Ấn, năm gặp Hợi lộc, nhận ở trên che chở của cha mẹ, giờ gặp Dậu kim, địa vị tự nhiên cao, Dần Ngọ hội cục, là Tài vượng sinh Quan, địa vị là Bộ trưởng Ngoại giao.

Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Nhâm Dần, Canh Tý
Quang Tự năm thứ 24, tháng 4, ngày 20, giờ Tý.
Mệnh Lưu Truân Ân: Dụng ở Canh Quý, Dần Ngọ Tuất thành cục, hai Mậu xuất can, là Tài sinh Sát vượng, quý mà tựu vũ chức, tạo này xứ tốt, tức là ở Quý thủy tàng trong Tý, không bị chỗ Mậu thổ hợp mà thôi.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Lục nguyệt Nhâm thủy - Tháng 6, Mùi, Tiểu Thử

(Tháng 6 Kỷ thổ nắm quyền, Nhâm thủy sợ nhược, trước dụng Tân giữ gốc, sau dụng Giáp mộc chế Kỷ).

Tháng 6 Nhâm thủy, trên dưới nửa tháng là khác nhau, trước tiết Đại Thử, cùng tháng 5 là đồng luận, nhất định cần Ấn Kiếp để trợ giúp, sau tiết Đại Thử, là kim thủy tiến khí, mùa gặp Kỷ thổ nắm quyền, bị nạn làm đục Nhâm thủy, cho nên sau dụng Giáp mộc, nhưng Giáp mộc không có Quý sinh nhuận, dụng không hiển, cùng tháng 3 dụng Giáp Canh là giống nhau.

Tân Giáp lưỡng thấu, khoa giáp phú quý, hoặc Giáp tàng Tân thấu, có thể tiến cử làm học trò, Tân tàng Giáp thấu, hiển đạt theo con đường khác.

Tháng 6 Kỷ thổ nắm lệnh, làm hỗn trọc Nhâm thủy, như thấy Kỷ thổ xuất can, nhất định cần lấy Giáp mộc làm cứu ứng, sau lấy Tân kim phát sinh gốc thủy, địa chi lại cần tàng 1, 2 điểm Tỉ Kiếp, nếu không, Thổ táo mộc khô, không thể dụng hết vậy.

Hoặc có Canh Nhâm lưỡng thấu không tổn thương, là tài cao địa vị hiển lộ, tức là Nhâm xuất Canh tàng không bị thương, có khả năng là Tú tài, thấy hỏa phá, dù thanh cao cũng chủ khốn cùng.

Ở trên nói Kỷ thổ xuất can, chỗ này là nói Kỷ thổ không thấu, chỉ có trong Mùi là có một điểm Kỷ thổ, thì không nhất định dụng Giáp, chuyên dụng Canh Nhâm không bị thương là nói không có Bính Đinh tổn thương Canh, Mậu Kỷ tổn thương Nhâm vậy, Canh Nhâm bị thương, dù là thanh cao cũng chủ khốn cùng.

Hoặc một lúc thấy Kỷ thổ, gọi là Giả Sát, là người miệng nói nam mô mà bụng bồ dao găm, ngày đêm hại người, vẫn thiếu cơm ăn áo mặc, dụng Giáp Ất xuất can chế, thì có cơm ăn áo mặc nhưng không có gian trá.

Khắc Ta là Sát, gọi là Giả Sát là có Quan nhiều hóa thành Sát, không phải là chân Sát vậy, Kỷ thổ làm đục Nhâm mà không thể ngăn thủy, Nhâm thủy trong suốt là chủ về Trí, lẫn tạp bùn cát cho nên nắm tính gian trá, cần được Giáp Ất là giải cứu, vẫn xem có hay không có Canh Nhâm phối hợp, để định lộc là phong phú hay keo kiệt.

Phàm thổ tọa ngôi sinh vượng, tuy dụng Giáp Ất chế, lại là kim Thê thủy Tử, hoặc chi thành mộc cục, tiết thủy thái quá, đang dụng kim thủy là Quý, kim là Thê, thủy là Tử.

Tiếp đoạn văn ở trên, một lúc có Kỷ thổ, cần Giáp Ất để cứu, dụng Giáp Ất là ví dụ lấy mộc là Tử, thủy là Thê, nhưng tháng 6 Nhâm thủy, tuy lấy mộc chế thổ là cứu, vẫn dụng ở kim thủy, là do Nhâm thủy cực nhược vậy, chi thành mộc cục, tiết thủy thái quá, không thể không có kim để cứu, vẫn dụng ở kim thủy, không chỉ có ở tháng 6 là như vậy, tất cả các loại cách cục đều như vậy, một là thần cứu ứng, một là dụng vật, phàm xem Thê Tử, nên rõ lý này vậy.

Tóm lại Tân Giáp là chủ, Canh kim là thứ.

Nhâm Tý, Đinh Mùi, Nhâm Tý, Tân Hợi
Tú tài, thiếu niên nhiều khó khăn, là do Nhâm vốn là kỵ hợp, nếu hành kim vận giải hợp, thì có thể tốt.
Ghi chú: Đinh Nhâm hợp, là trói buộc dụng thần, chỗ gọi là vượt quá chỗ có tình, chí nguyện không có đạt xa là vậy.
Lấy ở trên tạo thành chìa khóa cơ bản.

Giáp Thân, Tân Mùi, Nhâm Tuất, Mậu Thân
Quang Tự năm thứ 10, tháng 5 nhuận, ngày 19, giờ Thân.
Mệnh Duẫn Xương Hành: Tân Giáp lưỡng thấu, Giáp mộc phá Mậu Kỷ thổ, Mùi Thân Tuất nối nhau kẹp Dậu, sinh ở sau tiết Tiểu Thử 3 ngày, là do ở Đinh hỏa, trong Dậu vận gặp năm Nhâm Tý, Quý Sửu, bỗng nhiên nổi tiếng, khởi từ đồng ruộng, một dược mà thành Đô Đốc, là hoa Phù Dung sớm nở tối tàn, phút chốc rớt đài.

Mậu Tý, Kỷ Mùi, Nhâm Ngọ, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 14, tháng 6m, ngày 2, giờ Dần.
Mệnh Hám Triêu Tỳ: Mậu Kỷ Quan Sát hỗn tạp, trụ không có Giáp mộc, Dần cung Giáp mộc tiết khí ở hỏa, duy chỉ lấy Thai Nguyên là Canh Tuất, sinh trợ Tỉ Kiếp làm dụng, tạo này là xác thực không cần nghiên cứu thêm.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Thất nguyệt Nhâm thủy - Tháng 7, Thân, Lập Thu

(Tháng 7 Nhâm thủy, dựa vào Mẫu nắm lệnh, biến nhược thành cường, chuyên dụng Mậu thổ, sau dụng Đinh chế Canh làm phụ tá, nhưng cần dụng Thìn Tuất thổ, không thể dụng Thân trong nhận thổ bệnh)

Thân cung Canh kim lâm quan, Canh là Mẫu của Nhâm, cho nên nói dựa Mẫu nắm lệnh, Nhâm thủy trường sinh ở Thân, là Mẫu vượng Tử tướng, thế lực cùng hành, cùng với Dần trong có Bính hỏa là tương tự, Nhâm thủy lấy Thân làm đất phát sinh gốc, phát triển mạnh mẽ, chuyên lấy Mậu thổ làm đê điều, Mậu thổ tuy ký sinh ở hai cung Dần Thân, nhưng thổ nhất định cần thấy hỏa, dụng mới hiển, Thân cung thủy vượng thổ bị làm sạch, sao có thể dụng để đề phòng, Thìn Tuất đều là Mậu thổ đang vượng, Mậu ở Tuất cung, địa thế dày nặng, tự có thể nạp thủy vào quỹ đạo, Thìn thấy Thân hội thành thủy cục, thủy khí vượng, dụng nhược thổ, cần cân nhắc kĩ càng, Nguyệt lệnh Canh kim thái vượng, tiết nhược khí Mậu thổ, không có Đinh chế Canh, Mậu không thể dụng, cho nên lấy Đinh làm phụ tá, nhưng Đinh lấy Nhâm hợp là bệnh, cần cách xa nhau mới tốt.

Mậu thấu, thêm Đinh thấu ở can năm, Khoa giáp lộ ra quan, hoặc Mậu thấu thiên can, Đinh tàng ở Ngọ Tuất, được tiến cử ban ân huệ chức tước, nhưng kỵ thấy Quý thủy, sinh thành hóa hợp, hoặc chi thấy Dần Tuất, can năm Đinh hỏa không bị thương, có thể định là học trò, hoặc Bính Mậu đều tàng, trong phú lấy quý.

Mậu Đinh cùng thấu, tháng 7 là chính dụng của Nhâm thủy. Đinh thấu can năm là năm Đinh tháng Mậu Thân. Chi thấy Ngọ Tuất hội cục để đầy Mậu thổ, tự có được ban cho chức tước, thấy Quý hại Đinh hợp Mậu, mất dụng đề phòng, cho nên lấy là kỵ, không luận hóa cùng không hóa. Chi thấy Dần Tuất, can thấu Đinh hỏa, tuy hội hỏa cục, Mậu ở Tuất cung, vẫn không mất dụng, Bính Mậu đều tàng là chi thấy ở Dần Tị vậy, trong phú mà quý.

Hoặc tứ trụ nhiều Nhâm, Mậu lại thấu can, gọi là Giả sát hóa quyền, hoặc nhiều Mậu xuất ra can, được 1 Giáp thấu chế sơ lược có phú quý, không có Giáp, đến già vẫn khốn cùng.

Chỗ này nói dụng Mậu thổ Thiên Quan, phân rõ 2 đoạn là nói lấy Nhâm nhiều Mậu ít. Giả Sát hóa quyền là Sát ít là Thiên Quan, so với dụng Chính Quan lại có quyền uy, nhưng tứ trụ không thể không có Tài để sinh (hỏa), câu nói có Canh cư ở Thân, tường thuật ý nói là tàng Giáp thì không kỵ, Canh lộc ở Thân, có thể chế Giáp mộc, ít cho nên không kỵ, Giáp nhiều mà thấu, thì Canh trong Thân không đủ để chế, Mậu thổ dụng thần bị thương, không thể chế dòng chảy của thủy, thay đổi dụng Giáp mộc Thực thần, tuy y lộc không thiếu, nhưng là thường nhân mà thôi, sau là nói Mậu nhiều xuất ra can, là Thân vượng Sát cường, cần Giáp mộc chế là Thực thần chế Sát cách vậy.

Hoặc một lúc có Giáp mộc, lại thấy Tỉ nhiều, không có Canh xuất can, là ly hương chia lìa, y lộc tùy theo, Thân trong có Canh kim, dù có cứu cũng khó khăn.

Chỗ này nói Thực thần sinh Tài cách, một lúc có Giáp mộc, Thực thần quá nhiều, tiết nhược khí Nhâm thủy, nhất định cần mang Ấn, thấy Canh Ấn xuất can chế Giáp, mới có phú quý, Canh ở trong Thân, khó mà chế Giáp ở thiên can, lại còn khí tiết ở Nhâm, thụ chế ở hỏa, khó mà cứu ứng, nhất định là ly hương chia lìa, y lộc tùy theo mỗi người vậy.

Tóm lại, tháng 7 Nhâm thủy, chuyên dụng Mậu thổ, Đinh hỏa là phụ tá.

Mậu Dần, Canh Thân, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Dụng Mậu Bính, là Phủ Viện.
Ghi chú: Tài sinh nhược Sát cách, lấy trụ năm có Mậu Dần, Tài tàng Sát thấu, dẫn quy về thời thượng trường sinh, nên là quý vậy.

Đinh Hợi, Mậu Thân, Nhâm Thân, Canh Tuất
Chỗ này là thân vượng gánh nỗi Tài, Đinh Mậu đều thấu, là Thượng Thư.
Ghi chú: Tạo này cũng là Tài sinh nhược Sát, hỉ Đinh Nhâm ngăn cách, ngăn cách bởi Mậu thổ, nên không hợp, mà Mậu thổ thông căn ở Tuất thổ vừa dày mà đầy, cho nên có thể dụng vậy, cùng tạo ở trên là hơi giống nhau.

Tân Dậu, Bính Thân, Nhâm Thân, Canh Tuất
Quan Thị lang.
Ghi chú: Tạo này dụng Tuất cung có Mậu thổ, làm quan Thị Lang.

Tân Sửu, Bính Thân, Nhâm Thân, Tân Hợi
Hàn lâm.
Ghi chú: Tạo này không có Mậu thổ ngăn thủy, chuyên dụng Bính hỏa, hỉ đại vận nghịch hành Nam phương, kim thủy khí thanh mà ấm áp, cho nên được địa vị ở Từ Lâm, Bính Tân hợp, không thể tránh khỏi trói buộc dụng thần vậy.

Quý Dậu, Canh Thân, Nhâm Thìn, Tân Hợi
Tú tài, dụng thần trong Mậu thổ, dựa vào người mà giàu có.
Ghi chú: Tạo này là Nhuận Hạ cách mất thời, hỏa vận nghịch hành, chỗ gọi là Bắc nhập vận ở Nam phương, mua bán lấy được lãi to là vậy.

Ất Hợi, Giáp Thân, Nhâm Thân, Nhâm Dần
Người cô đơn.
Ghi chú: Mộc nhiều không có Canh xuất can, khó mà lấy Thực thương sinh Tài, y lộc tùy theo duyên số.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa cơ bản.

Đinh Sửu, Mậu Thân, Nhâm Tuất, Bính Ngọ
Quang Tự năm thứ 3, tháng 7, ngày 9, giờ Ngọ.
Mệnh Vương Thừa Bân: Đinh Mậu cùng thấu, Ngọ Tuất hội cục, là Tài vượng sinh Sát, địa vị là Đô đốc Hồ Bắc, Tài Sát thái vượng, hỉ vận hành Tây Bắc đất thân vượng.

Nhâm Ngọ, Mậu Thân, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 8, tháng 7, ngày 18, giờ Dần.
Mệnh Trương Kế: Dụng Tài sinh Sát, hỉ Dần Ngọ hội hỏa cục, sinh Mậu thổ, địa vị là Nghị trưởng Hạ Nghị Viện.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Bát nguyệt Nhâm thủy - Tháng 8, Dậu, Bạch Lộ


(Tháng 8 Tân kim nắm quyền, là mùa Kim bạch Thủy thanh, kỵ Mậu Kỷ là bệnh, chuyên thủ Giáp mộc)

Tháng 7 Nhâm thủy, có Canh lộc tương sinh, tính sợ chảy tràn lan, cho nên thủ Mậu thổ. Tháng 8 Nhâm thủy ở bại địa (mộc dục), không vượng không nhược, nhưng được nước trong xanh sâu lắng.

Nguyệt lệnh Tân kim nắm quyền, kim thủy tương sinh, gọi là Kim bạch thủy thanh, kỵ Mậu thổ gây trở ngại bế tắc, Kỷ thổ hỗn trọc, cho nên lấy Giáp mộc thủ quý, nếu Nhâm thủy thông căn ở Thân Hợi, không dụng Nguyệt lệnh Ấn thụ, không lấy Kim bạch Thủy thanh mà luận (xem ở dưới Tiết Nhâm nhiều thấu can).

Giáp thấu, tính của Nhâm sâu lắng mà trong thanh, khoa giáp hiển lộ quan chức, hoặc thấy Mậu, có Giáp thấu nhiều, là Khứ trọc lưu thanh, cát và nước có tượng cùng nhau vui vẻ, kim tự là bạch mà thủy tự là thanh, khoa giáp không nghi ngờ, được Giáp thấu ở can giờ gọi là Văn Tinh, đảm nhận vào Hàn Lâm, thấy Canh phá, là thường nhân, tức có Giáp tàng ở chi, trong chi không có Canh, cũng chủ là học trò.

Tháng 8 Nhâm thủy, nguyệt lệnh là Chính Ấn, Nhâm thủy không lo không có gốc, khứ bệnh là quý, cho nên lấy Giáp mộc làm chính dụng. Mậu Kỷ thổ là khí bốn mùa pha tạp, không thời không khắc không lưu hành ở giữa thiên địa, nhưng không bất vượng mà thôi, đề phòng không có hình thể hỗn trọc, thấy Giáp mộc thì thủy tự trong thanh, cách cục tự quý. Tứ trụ thấy Mậu, thì cần Giáp mộc thấu nhiều, mới có thể khứ, câu nói Giáp thấu ra ở can giờ gọi là Văn Tinh, tiếp ở trên mà nói Nhâm thủy trong thanh thấu suốt ngọn nguồn. Thiên can thấu Giáp, gọi là Văn Tinh, là nói ở can giờ vậy, giờ là đất quy về lúc tuổi già. Văn Tinh ở can giờ, thì kết cục định cho toàn thân vậy, hỉ dụng ở Giáp, không thể thấy Canh phá, dù Canh kim ở chi, cũng kỵ thấy vậy, như Nhâm nhược vô căn, thì lấy Ấn làm chính dụng, Giáp mộc làm phụ tá, xem ở dưới ví dụ chứng minh.

Hoặc Nhâm nhiều thấu can, chi có Thân Hợi, chỗ này không dụng Giáp mà dụng Mậu, trong Hợi dù có Giáp phá Mậu, trong Thân lại có Canh phá Giáp, chỗ này cũng chủ làm học trò, mà có tài năng giàu có đầy đủ, hoặc không có Mậu mà nhiều Nhâm, người thì thanh tao mà tài năng lộn xộn, cuối cùng chủ khốn cùng.

Chi có Thân Hợi, sợ tính Nhâm thủy hay chảy tràn lan, cho nên không dụng Giáp mà dụng Mậu, dụng Mậu thì kỵ thấy Giáp mộc tổn thương dụng vậy, nhưng dụng Mậu thổ không thể không có hỏa làm phụ tá, là Tài Quan cách, kim thủy khí thanh mà lưu động, không có Mậu ngăn thủy, cuối cùng chủ khốn cùng. Không có Giáp, dụng kim phát sinh gốc thủy, gọi là Độc thủy phạm ba Canh Tân, hào viết là Thể tượng đầy đủ.

Sách viết: Thủy ít kim nhiều, hào viết là Thể tượng đầy đủ, là phá cách vậy, Mẫu vượng Tử cô, nên trợ giúp cho Tử, lấy toàn cục làm chủ, mà lấy Nhật nguyên làm dụng, như mệnh của Viện trưởng Khổng Tường Hi:

Canh Thìn, Ất Dậu, Quý Mão, Canh Thân
Cách này cần đầy cục Canh Tân, nếu thủy thấy có 2,3, không lấy chỗ này mà luận. Nhâm không có nhiều (xem đoạn tháng 7 Tân kim).

Tóm lại, tháng 8 Nhâm thủy, chuyên dụng Giáp mộc, dụng Giáp thì thủy là Thê mộc là Tử.

Tháng 8 Nhâm thủy, lấy dụng Giáp mộc là chính, toàn thể cách là thay đổi, dụng Mậu thổ là ứng với bệnh cùng dược, là cách cục bình thường vậy.

Quý Mùi, Tân Dậu, Nhâm Thân, Mậu Thân
Là quan Bố Chính ( quan đứng đầu một tỉnh).
Ghi chú: Tạo này chuyên dụng Mậu thổ, cần vận hành Nam phương, dụng thần đắc địa mà quý.

Canh Ngọ, Ất Dậu, Nhâm Tý, Giáp Thìn
Canh Giáp lưỡng thấu, là quan Từ Lâm.
Ghi chú: Giáp lấy Ất muội gả làm vợ cho Canh, không thấu Giáp, chuyên dụng Giáp mộc Văn Tinh, cho nên có làm quan Từ Lâm.

Tân Dậu, Đinh Dậu, Nhâm Thìn, Nhâm Dần
Long Hổ củng Thiên môn, lại viết là Nhâm triệu Cấn cách, quan Thám Hoa.
Thìn là Long, Dần là Hổ củng Mão (vì Dần Thìn vây quanh Mão nên gọi là củng Mão). 2 Dậu ám xung Mão cung, Mão là cửa xuất nhập Nhật Nguyệt, cho nên viết là Thiên Môn. Tác phẩm Lan Thai Diệu Tuyển có nói Dậu sinh nhập đối xung là Mão, thì Mão là Môn hộ, không thấy Mão mà thấy Dần Thìn, là Long Hổ củng môn, trong Dần có Giáp mộc không bị thương, vận hành Giáp Ngọ, nên là Đỉnh Giáp (đứng đầu khoa giáp: Tiến sĩ). Nhâm triệu Cấn cách là cần có chi thấy chữ Dần nhiều (xem Tiết tháng 5 Nhâm thủy), tạo này không phải vậy.

Nhâm Tý, Kỷ Dậu, Nhâm Tý, Canh Tuất
Ấn vượng thân cường, phú nhiều quý ít.
Ghi chú: Tạo này có Nhâm thủy hai tạo, chuyên dụng Tuất cung Mậu thổ, phép xem giống tháng 7, Kỷ thổ xuất can, làm hỗn trọc Nhâm thủy, khó mà lấy con quý, Tuất kẹp Hợi, là nơi Nhâm thủy đắc lộc, thời thượng Tài tinh quy khố, thân vượng gánh nỗi Tài, cũng hiểu là phú cách.

Bính Tý, Đinh Dậu, Nhâm Tý, Kỷ Dậu
Thân vượng không có chỗ dựa, cả đời bần khổ.
Ghi chú: Tài lộ không có căn, chi nhiều Kiếp Nhận, Kỷ thổ không đủ để ngăn thủy, đường đi tự nhiên làm đục Nhâm thủy, nếu thấy 1 Giáp mộc, tức là y lộc bình thường, không đến nỗi là bần khổ không có chỗ dựa (xem đoạn ở trên tháng 7 tứ trụ có nhiều Nhâm).
Lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Ất Dậu, Ất Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Thìn
Quang Tự năm thứ 11, tháng 8, ngày 16, giờ Thìn.
Mệnh Trương Lân Thư: Nhâm sinh tháng 8, được Giáp mộc xuất can chế thổ, là Kim bạch thủy thanh, Ngọ cung có Đinh hỏa Tài tinh đắc lộc, tiết khí Giáp mộc, cho nên nhận chức vụ Ngân hàng Giao thông 30 năm, không là giới lưu thông tài chính, Thìn vận năm Mậu Dần tháng 5, gặp ám sát mà chết, cuối cùng không đắc lệnh, là do thấy ở cục đầy tự hình vậy.

Giáp Ngọ, Quý Dậu, Nhâm Tuất, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 20, tháng 8, ngày 18, giờ Dần.
Mệnh Trương Nãi Yến: là Kim bạch thủy thanh, chuyên dụng Tỉ Ấn. Giáp mộc xuất can là Văn Tinh, đảm nhận Hiệu trưởng trường đại học, là đại thần Học Bộ.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Cửu nguyệt Nhâm thủy - Tháng 9, Tuất, Hàn Lộ

Tháng 9 Hợi thủy tiến khí, thế như đang vượng, thấy một lúc có Nhâm thủy, được một Giáp để phá Mậu Tuất, lại thấy một Mậu xuất can, tư dụng Bính hỏa, hợp chỗ này là phẩn chất phú quý mà thanh nhã, chính là một Quan tương ứng, quần tà tự phục, thấy Bính, liền chủ y lộc, xử thế có thể hơi chấp nhận.

Hợi thủy là Nhâm thủy vậy, trường sinh ở Thân, tới Tuất là ngôi Quan đái, thế giống vượng mà không vượng. Nguyệt viên là Mậu thổ, là thần thừa quyền nắm lệnh, Nhâm thủy dù có nhiều, không có họa chảy tràn lan, cho nên nhất định lấy Giáp mộc chế Sát làm dụng, nếu nguyệt viên là Mậu Tuất, càng cần phải có Giáp mộc xuất can, mới có thể chế.

Chỗ này là tháng 9 Nhâm thủy, do đó chuyên dụng Giáp mộc vậy. Nếu Nhâm thủy nhiều, chi đến Dương Nhận, thấy một Mậu xuất can, thì Sát Nhận tương chế, là Sát Nhận cách. Nhâm thủy nhiều, Mậu thổ cũng nhiều, là Thân cường Sát vượng, lấy Giáp mộc để chế chính là Thực thần chế Sát cách.

Nhâm thủy tiến khí, nhận thổ hư hàn, thổ đóng băng thủy hàn lạnh, cần phân rõ cao hay thấp, tuy thanh mà vô tình, được Giáp mộc tiết thủy, Bính hỏa làm ấm thổ, thì thế cục linh hoạt, tiết này câu chữ đơn giản, ý nghĩa rất mờ mịt, xu thế mang vượng ở dưới, nghi ngờ có bỏ mất câu cú, nên tỉ mĩ phân biệt.

Hoặc một lúc có Mậu thổ, không có một Kỷ một Canh tạp loạn, đơn độc chỉ có Giáp thấu ở can giờ, định chủ là ngọc đường thanh quý, dù có Giáp thấu can tháng, định chủ Khoa giáp, nếu chi tàng Kỷ thổ, cũng có thể nhất bảng, dù phong thổ chưa đủ, cũng chủ tiến cử Tú tài, hoặc Canh thấu không có Đinh, liến lấy bần tiện, hoặc Đinh thấu thấy Giáp, hơi có phú quý.

Tường thuật phép dụng Giáp, Mậu thổ là thần nắm lệnh, Nhâm thủy dù mang vượng, rút cuộc thuộc ít thủy, cho nên nhất định cần Giáp mộc để chế, kỵ Kỷ hợp Giáp, kỵ Canh phá Giáp, cho nên dụng Giáp, lấy không có Kỷ Canh tạp loạn là thanh quý vậy, Giáp thấu can giờ là giờ Giáp Thìn vậy. Thực thần chế Sát cách lấy Sát trước Thực sai là quý, Giáp thấu can tháng là tháng Giáp Tuất vậy, Sát tàng Thực thấu, chế Sát đắc lực, Kỷ thổ tàng chi là trụ năm và giờ có Sửu Mùi vậy, có Giáp mộc xuất can cũng đủ để phá thổ, Canh thấu không có Đinh là dụng ở Thực thần, thấy Kiêu thần đoạt Thực, không thể không có Đinh giải cứu, cho nên Đinh thấu là hơi có phú quý, không có Đinh là bần tiện.

Hoặc không có Bính dụng Mậu, là thường nhân, dụng Thổ thì kim là Thê thủy là Tử.

Thu thổ khí hàn, dụng Mậu thổ cần lấy Bính hỏa làm phụ tá, không luận Thực thần chế Sát hoặc Tài sinh Sát vậy, tháng 9 Nhâm thủy không ngoài ở chỗ dụng Giáp, Dụng Mậu, dụng Giáp thì thủy là Thê mộc là Tử (xem Kỷ ở tháng Cool. Phàm thổ ở đất sinh vượng, dù có dụng Giáp Ất chế thổ, lại là kim Thê thủy Tử (xem Tiết tháng 6 Nhâm thủy). Tháng 9 thổ vượng nắm lệnh, một lý mà thôi.

Tóm lại, tháng 9 Nhâm thủy, chuyên dụng Giáp mộc, sau xem Bính hỏa, Mậu thổ cần cân nhắc mà dụng.

Tổng kết đoạn văn ở trên, mùa thổ vượng nắm lệnh, lấy Giáp mộc phá thổ làm chính dụng, Nhâm thủy uông dương, lấy một Mậu chế quần thủy, là Một tướng giữ cửa thành, cả bầy tà khuất phục (Nhất tương đương quan, quần tà tự phục), sau xem Bính hỏa là do thổ hàn thủy lãnh vậy.

Bính Dần, Mậu Tuất, Nhâm Tuất, Tân Sửu
Thân vượng Quan vượng, lại được Bính thấu, là Tham Chính.
Ghi chú: Bính Tân cách xa không hợp, lấy Dần cung Giáp mộc phá Mậu, Tân kim sinh Nhâm, hỉ vận hành Đông Bắc đất thủy mộc vậy.

Bính Tý, Mậu Tuất, Nhâm Thân, Giáp Thìn
Tiến sĩ, là quan Thái Thú.
Ghi chú: Giáp Bính lưỡng thấu, Sát trước Thực sau, cách cục đầy đủ, thời đại thái bình làm Thái Thú, mộc thấu có thể làm quan tới Phủ Doãn, loạn thế có thể là Tỉnh trưởng, thời đại cũng có khác nhau vậy.

Mậu Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Giáp Thìn
Thiếu niên là Hàn Lâm, làm quan tới chưa Phó Đô Ngự Sử.
Ghi chú: Giáp thấu Bính tàng, Sát trước Thực sau, cùng tạo ở trên giống nhau, dù có quan chức ở trong hay ngoài, địa vị cũng hàng đầu vậy.

Tân Sửu, Mậu Tuất, Nhâm Tuất, Giáp Thìn
Chi thành tứ khố, một Giáp thấu ở trụ giờ, Thái Sứ.
Ghi chú: Tạo này chi tụ tứ khố, dụng Giáp phá thổ, dụng Tân sinh Nhâm, hỉ Nhâm thủy tiến khí, cho nên có địa vị ở Từ Lâm.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa cơ bản.

Kỷ Tị, Giáp Tuất, Nhâm Thìn, Canh Tý
Đồng Trị năm thứ 8, tháng 9, ngày 24, giờ Tý.
Mệnh Đoạn Chi Quý: Giáp Kỷ tương hợp, lại có Canh kim áp bức ở xa, tất nhiên hóa thổ, không thể dụng Quý, nguyệt lệnh Sát vượng, mà giờ phùng Tý thủy là Dương Nhận, Sát Nhận thành cách, Quý nhất định tựu ở vũ chức, địa là Đốc Phủ.

Bính Tý, Mậu Tuất, Nhâm Tý, Canh Tý
Quang Tự năm thứ 2, tháng 8, ngày 24, giờ Tý.
Mệnh anh của một người bằng hữu, chi phùng ba Nhận, Thu thủy như đại dương mênh mông, chuyên thủ Mậu thổ, Sát Nhận tương chế thành cách, tuy có Bính hỏa, ánh sáng chiều tà mặt trời đang rơi xuống, lực lượng không đủ, tứ trụ không có Giáp mộc tiết thủy sinh Bính, Sát Nhận vô tình, dù có tài năng, khó triển khai hết tài năng, cả đời lấy Dần vận là đắc ý nhất, họ Tăng Nhậm chủ sự cầm quyền trước Lĩnh sự Bộ Ngoại giao, tới Giáp vận, phá mất Mậu thổ, gặp thảm hại mất mệnh, ở năm Mậu Dần, Giáp mộc đắc lộc mà thổ sụp vậy, thọ 63 tuổi.

Kỷ Mão, Giáp Tuất, Nhâm Thìn, Đinh Mùi
Quang Tự năm thứ 5, tháng 9, ngày 22, giờ Mùi.
Mệnh Chu Thâm: Giáp mộc xuất can phá thổ, duy có Đinh Nhâm tương hợp, Nhật nguyên hướng về Tài tinh, Giáp Kỷ tương hợp, phá thổ không có lực, không thấy chỗ tốt, mệnh tạo này là chính xác không nghiên cứu thêm.

Nhâm Ngọ, Canh Tuất, Nhâm Dần, Canh Tý
Quang Tự năm thứ 8, tháng 9, ngày 19, giờ Tý.
Mệnh Tương Bách: Chi tụ Dần Ngọ Tuất hợp hỏa cục, Tài vượng sinh Sát, giờ phùng Dương Nhận, Sát Nhận thành cách, Sát vượng Nhận khinh, dụng nên trợ Nhận, thiếu niên hành Bắc phương vận, đảm nhận chức Đô đốc tỉnh Chiết Giang, không kể tháng bị mất ngôi, là phúc mệnh chưa đủ lấy vậy, nhưng có Dần cung Giáp Bính, thủy mộc hỏa thổ tương chế có tình, khí thế nô đùa thông suốt, tức là quý cách, xem thêm tạo Bính Tý.

Tân Mão, Mậu Tuất, Nhâm Thân, Canh Tý.
Quang Tự năm thứ 17, tháng 9, ngày 11, giờ Tý.
Mệnh Chu Thiệu Lương: Thất Sát xuất can, giờ phùng Tý Nhận, Sát Nhận thành cách, địa vị tất tựu ở vũ chức, hỉ vận hành Nam phương vậy.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Thập nguyệt Nhâm thủy - Tháng 10, Hợi,, Lập Đông

(Tháng 10, Hợi thủy nắm lệnh, dụng Mậu làm chủ)

Tháng 10, Nhâm thủy lâm quan, có thế lục xung bôn (chảy tràn lan), cho nên lấy Mậu thổ làm chủ, Bính hỏa làm phụ tá.

Như ngày Nhâm Thìn, lại thấy giờ Thìn, Nhâm có thế lực chảy cuồn cuộn, cần có Mậu thấu thiên can. Canh chế Giáp, không làm tổn thương Mậu thổ, Mậu Canh lưỡng thấu, khoa giáp lộ quan, hoặc có Giáp xuất ra chế Mậu, không thấy Canh giải cứu, trái lại là dẫn đến khốn cùng. Mậu tàng không có chế, chủ làm sinh viên, hoặc có Mậu Canh không có Giáp, chẳng những phú quý mà còn nhiều phúc thọ.

Ngày Nhâm Thìn nạp âm là thủy, lại thấy giờ Thìn, không nên không chú ý đến mộ khố, nguyệt lệnh Kiến Lộc, thế thủy chảy cuồn cuộn, cần có Mậu thổ xuất can, mới có thể chế, trong Thìn có Mậu thổ, là không thể dụng vậy. Hợi cung có Giáp mộc trường sinh, thấy thổ chế thủy, mộc được bồi đầy mà vượng, trái lại làm tổn thương Mậu thổ, cho nên cần có Canh chế Giáp, mới định là phú quý vậy.

Tháng 10 Nhâm thủy, chuyên dụng Tài sinh nhược Sát, không dụng Thực thần chế Sát, như thấy Thực thần, tất cần lấy Kiêu Ấn giải cứu. Sách viết: Thổ ngăn dòng chảy của thủy thì đầy đủ phúc thọ, dụng Tài sinh Sát là mệnh phúc thọ, phú quý (xem tháng 2) kiêm lấy Canh thấu là đề phòng Hợi cung có Giáp mộc khí trường sinh vậy.

Hoặc chi thành mộc cục, lại thấu Giáp, có Canh chế thì phú quý, không có Canh, là thường nhân.

Tháng 10 Nhâm Quý, tối kỵ có Hợi Mão Mùi hội thành mộc cục, tiết tán nguyên thần. Thương quan vượng mà mất lệnh, cho nên cần lấy Kiêu Ấn làm dụng, chế Thương mà phù thân, được cả 2 phương kiêm cả có ích.

Hoặc chi thành thủy cục, không thấy Mậu Kỷ, gọi là Nhuận Hạ cách, vào vận Tây Bắc là đại phú quý, vào vận Đông Nam thì bần tiện tiêu điều.

Chuyên vượng thành cách, lấy thuận kỳ khí thế làm dụng, như Viêm Thượng thì hỉ hành Đông Nam, Nhuận Hạ thì hỉ hành Tây Bắc, là lẽ thường tình. Trích Thiên Tủy viết: Độc tượng hỉ hành hóa địa, mà hóa thần cần thịnh vượng, hóa giả dẫn hóa, tức là Thực Thương vậy, đại để cách có thuần có tạp, cách thuần cần đất Thực Thương, cách tạp cần phương Tây Bắc. Nhuận Hạ càng có quan hệ ở khí hậu, thủy đóng băng thì ngưng chảy, nói cần Tây Bắc là nói sơ lược vậy, do nơi lý lẽ mà ra, Đông phương thì có thể hành, Nam phương tất nhiên là kỵ.

Hoặc thấy Bính Mậu đều xuất ra, vận hành hỏa thổ, danh lợi song toàn, có Bính không có Mậu là thường nhân, có Mậu không có Bính, y lộc không có dư, nhưng mà thường gặp giảm thất, không thể tụ tài.

Tiết thừa nhận có câu dụng Mậu làm chủ, được Bính Mậu lưỡng xuất, Giáp mộc dù có sinh khí, cũng sinh Bính mà không phá Mậu, không cần dụng tiếp Canh kim chế Giáp vậy, tháng 10 Nhâm thủy, lấy Bính Mậu làm chính dụng, có Bính không có Mậu, Tài vượng mà không tụ, tuy có y lộc, nhưng thường nhân mà thôi, có Mậu không có Bính, là Hàn thổ đống thủy, có mưu cơ nhưng khó thành (xem Tiết tháng 11). Cả hai Bính Mậu mà khuyết một, đều thường gặp giảm thất, là bệnh không thể tụ tài vậy.

Tóm lại, tháng 10 Nhâm thủy, chuyên dụng Mậu Bính, Canh kim là sau.

Tổng kết đoạn văn ở trên, dụng Mậu Bính là chính, Canh kim là ứng bệnh cùng dụng dược vậy.

Đinh Sửu, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Mão
Bần khổ.
Ghi chú: Tài lộ thấy Kiếp, Tài lại không vượng, nên là bần khổ.

Kỷ Hợi, Ất Hợi, Nhâm Thìn, Tân Hợi
Lưỡng bảng.
Ghi chú: Tạo này được Thai Nguyên Bính Dần trợ giúp.

Ất Tị, Đinh Hợi, Nhâm Ngọ, Canh Tuất
Tăng đạo.
Ghi chú: Tạo này có Tị Hợi xung, Thai Nguyên lại gặp Mậu Dần, hỏa vượng thành cục, trái lại cần kim thủy để trợ giúp, cũng là biến cách vậy.

Canh Tý, Đinh Hợi, Nhâm Tuất, Canh Tuất
Được Canh chế Giáp, là Hội Nguyên (người đỗ đầu khoa thi Hội, thời Minh-Thanh ở Trung Quốc).
Ghi chú: Tạo này chuyên lấy trong Tuất có Mậu thổ chế thủy, Canh kim chế Giáp.

Nhâm Thân, Tân Hợi, Nhâm Tý, Tân Hợi
Chi thấy Hợi Tý, tứ trụ không có Mậu, gọi là Vượng thịnh vô y, là Tăng đạo.
Ghi chú: Nhuận Hạ thành cách, tiếc là Thai Nguyên Nhâm Dần, cách cục không thuần, hỏa vận hành Đông Nam nghịch tính thủy, trái lại là mệnh bần khổ vậy.
Lấy ở trên làm mấu chốt cơ bản của tạo hóa.

Tân Hợi, Kỷ Hợi, Nhâm Ngọ, Tân Hợi
Hàm Phong năm thứ nhất, tháng 9, ngày 30, giờ Hợi.
Mệnh Trương Thối Hán: Lấy trong Ngọ có Đinh hỏa sinh trợ Kỷ thổ là Quan tinh, Đinh Kỷ cùng đắc lộc ở Ngọ, nhưng tháng 10 Nhâm thủy dụng Đinh Kỷ không bằng Bính Mậu, hi vọng đạt kỳ thi Hương, thọ 88 tuổi, mất ở năm Mậu Dần.

Kỷ Tị, Ất Hợi, Nhâm Tý, Ất Tị
Đồng Trị năm thứ 8, tháng 10, ngày 14, giờ Tị.
Mệnh Chu Tự Tề: Chuyên dụng Tị cung có Bính Mậu, lại có Canh kim chế Giáp, vận hành Nam phương, địa vị là Tổng trưởng Tài chính.

Tân Mùi, Kỷ Hợi, Nhâm Thân, Mậu Thân
Đồng Trị năm thứ 10, tháng 10, ngày 15, giờ Thân.
Mệnh Giản Chiếu Nam: Mậu thổ xuất can không có Bính, hỉ Thai Nguyên Canh Dần, ám tàng Bính hỏa, sinh ở Nam Dương, hỏa thổ khí vượng, đại phú mà không quý là nhờ anh em ở tỉnh Nam Dương (tên gọi vùng đất Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông vào cuối đời Thanh ở Trung Quốc) tạo lập Công Ty thuốc lá, lại vừa tạo này đang nghi ngờ là giờ sinh Đinh Mùi.

Tân Tị, Kỷ Hợi, Nhâm Tuất, Giáp Thìn
Quang Tự năm thứ 7, tháng 10, ngày 3, giờ Thìn.
Mệnh Diệp Công Xước: Chuyên dụng Tị cung có Bính Mậu, Kỷ hợp Giáp, không phá Mậu, cũng là cách hiếm có vậy (xem thêm ở Tiết tháng 11) địa vị là Tổng trưởng Giao Thông.

Quý Mùi, Quý Hợi, Nhâm Thân, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 9, tháng 10, ngày 25, giờ Tuất.
Mệnh Lý Liệt Quân: Chuyên lấy Tuất cung có Mậu thổ ngăn thủy, tiếc là không có Bính hỏa, đầu năm Dân Quốc, là Đô đốc tỉnh Giang Tây, lên xuống bất thường, danh lợi khó đầy đủ.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Thập nhất nguyệt Nhâm thủy - Tháng 11, Tý, Đại Tuyết


(Tháng 11 Nhâm thủy, có Dương Nhận trợ thân, so với trước là càng vượng, trước dụng Mậu thổ sau dụng Bính hỏa)

Tháng 11 Nhâm thủy, cùng tháng 10 luận giống nhau, Dương Nhận nắm lệnh, khí hậu càng hàn lạnh, không có Mậu Bính cùng thấu, thì không đủ để giải cứu!

Sách viết:
Kiến Lộc sinh đề nguyệt,
Tài Quan hỉ thấu thiên,
Dương can dụng Tài Quan giả,
Nãi thị Thiên Tài Thiên Quan.

Mà không phải là Chính Tài, Chính Quan vậy!

Bính Mậu lưỡng thấu, có khoa giáp, phú quý, mà tài năng đức nghiệp vô song, hoặc có Mậu không có Bính, bất quá chỉ là có đường xử thế, danh lợi khó đầy đủ, có Bính không có Mậu, mưu mô tốt mà không có thực.

Tháng 11 chuyên dụng Bính Mậu, không lấy Canh kim là do Nguyệt lệnh không có mộc khí vậy, Bính hỏa điều hậu là cấp bách, ngăn thủy cần có Mậu, cả 2 nhất định cần kiêm dụng, không thể thiếu một.

Hoặc chi thành thủy cục, không thấy Bính hỏa, tức là có Mậu thổ là không được chỗ, là thường nhân mà thôi. Hoặc Bính Mậu tàng ở chi, giải băng hàn ngăn chảy, thì công danh hiển đạt phi thường, nhưng cần có vận tốt, vận ngược là không tốt.

Chi thành thủy cục, lấy Mậu thổ làm chủ, Bính hỏa làm phụ tá. Mậu thổ như không được chỗ, dù có Bính hỏa, cũng là kẻ vô tích sự, được chỗ là ngôi vị Đắc lộc phùng vượng, chi thấy Tị Tuất là vậy. Bính Mậu tàng ở chi là trụ có Tị Tuất, mà Bính Mậu không xuất can vậy, chi là gốc, can là mầm, can thấu không bằng chi tàng, nhưng cần quá trình đắc địa, nếu không, địa vị tuy cao mà không vinh hiển.

Hoặc chi thành hỏa cục, nhất phú mà thôi. Chỗ này là nói dụng Tài, chi thành hỏa cục, thân vượng Tài vượng, là cách đại phú.

Hoặc Tỉ thấy ở trụ tháng, giờ, có Đinh xuất ra ở can năm, là thường nhân, hoặc chi thấy tứ khố, lại chủ phú quý.

Hoặc ngày Nhâm thấy 2 Đinh xuất ra ở can trụ năm, tháng, giờ, gọi là Tranh hợp, chủ danh lợi khó thành.

Tháng Nhâm hoặc giờ Nhâm, năm thấy Đinh hỏa Tỉ kiên tranh tài, là thường nhân, chi thấy tứ khố, ngăn dòng chảy thủy, liền chủ phú quý, lấy Tuất Tài khố là tốt, nếu Bính Đinh tranh hợp 1 Nhâm, không có thổ ngăn thủy, lại không có thể lấy hóa mà luận, là tầm thường, hạ cách, khó nói danh lợi vậy.

Hoặc ngày Nhâm Ngọ, giờ Đinh Mùi, dù không có khoa giáp, cũng chủ quyền trọng vị cao, là sao vậy? Cái dụng Tý trong có Quý thủy, gọi là Dụng thần đắc địa, cùng Mậu Bính đều dụng.

Chỗ này nói Nhâm thủy phản cường thành nhược, dụng Tý trong có Quý thủy là Dương Nhận, gọi là Dụng thần đắc địa, là biến cách vậy (không phải lấy Đinh Nhâm hóa hợp). Trong tứ khố duy chỉ có ngôi Tuất là táo thổ, Tuất là Mậu thổ, Mùi là Kỷ thổ. Nếu ngày Nhâm Ngọ, giờ Đinh Mùi, chi thấy Mùi là tương hợp, Đinh hỏa xuất can, tuy là Đinh Kỷ, cùng Bính Mậu dụng như nhau. Nguyệt lệnh Dương Nhận nắm lệnh, Quan Nhận hoặc Sát Nhận thành cách, đều nhất định là quý vậy.

Đinh Mão, Nhâm Tý, Nhâm Dần, Mậu Thân
Phương bá.
Ghi chú: Mậu thấu Bính tàng, ở giữa mùa Đông thì là chính dụng của Nhâm thủy vậy.

Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Thiên Nguyên nhất khí, Sát vượng đắc địa, làm quan Thị Lang.
Ghi chú: Chuyên dụng Dần có Bính Mậu, là Tài Sát đắc địa.

Nhâm Tý, Nhâm Tý, Nhâm Tý, Giáp Thìn.
Phi Thiên Lộc Mã cách, quan Thượng Thư.
Ghi chú: Phi Thiên Lộc Mã là biến cách của thủy mộc Thương quan, chuyên lấy Giáp mộc làm dụng, vận hỉ Đông phương, cùng Nhuận Hạ cách, lý lẽ thuần túy giống nhau, chỗ gọi là Độc tượng hỉ hành hóa địa là vậy.

Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Tý, Tân Hợi
Phú cách.
Ghi chú: Dần cung có Bính Mậu thái nhược, Dần Hợi hợp mộc, chuyển mà sinh Tài, cho nên là phú cách.

Lấy ở trên tạo ra chìa khóa cơ bản.

Quý Sửu, Giáp Tý, Nhâm Ngọ, Giáp Thìn
Khang Hi năm thứ 12, tháng 121, ngày 17, giờ Thìn.
Mệnh Thẩm Đức Tiềm: năm Kỷ Mùi trở thành tiến sĩ, tuổi 67, Cao Tông gọi là lão danh sĩ, làm quan ở Bộ Lễ Thị Lang, mất năm 97 tuổi, được tặng thụy văn, tạo này chuyên dụng Ngọ cung có Đinh Kỷ, không bằng có 2 Giáp cái đầu, Kỷ thổ bị chế, một mạch tiến thẳng đến vận Đinh Bính Tài vận mà hiển lộ thanh danh, không lấy Quan Nhận luận, là mộc hỏa thông minh, cho nên là đại thần văn học vậy.

Bính Ngọ, Canh Tý, Nhâm Ngọ, Canh Tý
Đạo Quang năm thứ 26, tháng 11, ngày 1, giờ Tý.
Mệnh Phàn Phàn Sơn: Thiên Địa phân ra một nửa, không lấy xung luận, dụng Ngọ trong có Đinh Kỷ Tài Quan, xuất thân Khoa giáp, về sau vận hành Nam phương, đại quý.

Đinh Mão, Nhâm Tý, Nhâm Thân, Giáp Thìn
Đồng Trị năm thứ 6, tháng 11, ngày 13, giờ Thìn.
Mệnh Cát Trĩ Uy: là Phi thiên lộc mã kiến Đinh phá cách, là Nhuận Hạ cách chi không thuần túy mà vận hành thổ kim, an phú tôn vinh, hi vọng đất nhất khoa Hương, một lúc hành Nam phương, tài sinh tiêu điều, do để Tỉ kiên tranh hợp vậy.

Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Nhâm Thìn, Ất Tị
Quang Tự năm thứ 18, tháng 11, ngày 8, giờ Tị.
Mệnh Thái Đình Thác: Chuyên dụng Tị cung có Bính Mậu giải hàn băng ngăn dòng chảy, địa vị là Quân đoàn trưởng, Chủ tịch tỉnh Phúc Kiến.

Mậu Tuất, Giáp Tý, Nhâm Tuất, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 24, tháng 12, ngày 13, giờ Dần.
Mệnh Giang Nhất Bình: Chuyên dụng Giáp mộc Thực thần chế Sát, hỉ thời thượng có Giáp mộc đắc lộc, Tài tinh có khí, là Luật Sư, Mậu thổ chế Tỉ, khả dĩ hộ Tài, kim bị Giáp mộc chế trụ, Tài đến liền Kiếp, cho nên vượng là không lưu thông vậy.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Thập nhị nguyệt Nhâm thủy - Tháng 12, Sửu, Tiểu Hàn

Tháng 12, Nhâm thủy cực vượng trở về suy, là sao vậy? Nửa tháng đầu Quý Tân là chủ sự, Nhâm thủy hơi vượng, chuyên dụng Bính hỏa giải băng hàn, nửa tháng sau Kỷ thổ chủ sự, cho nên trước dụng Bính hỏa, chữ dụng Giáp mộc làm phụ tá, thuật sĩ không bắt bẻ, thói quan lấy vượng mà suy ra, đặc thù không biết nửa tháng đầu Nhâm Quý chỉ có vượng 12 ngày, nửa tháng sau là Kỷ thổ, thì có 18 ngày vậy, đều lấy vượng suy ra, sao có thể ứng nghiệm, cho nên có Bính, danh lợi là đầy đủ.

Tháng 12 Nhâm thủy, nửa tháng đầu có Quý Tân chủ sự, cùng tháng 11 là giống nhau, chuyên dụng Bính hỏa, như Tỉ Kiếp xuất can, cân nhắc mà dụng Mậu thổ, nói chung lấy Bính hỏa giải băng hàn làm chủ, nửa tháng sau Kỷ thổ nắm vượng, mộc hỏa tiến khí, Nhâm thủy không lấy vượng luận, dụng Bính hỏa giải băng hàn, kiêm lấy Giáp mộc là đề phòng Kỷ thổ làm đục Nhâm thủy vậy, nhưng không luận trước hay sau nửa tháng, Bính hỏa nói chung là dụng chủ yếu, cho nên nói có Bính, danh lợi lưỡng toàn.

Bính Tân đều thấu, khoa giáp phú quý, không có Bính định lấy hàn vi, Bính thấu Giáp xuất ra, định vị khoa giáp, nhưng tứ trụ không có Nhâm mới tốt, hoặc tứ trụ có Nhâm, Bính tàng là thường nhân, thấy Mậu chế thủy, có thể định là sinh viên, mà có lộc thọ.

Lấy ở dưới phép xem chuyên luận nửa tháng sau, dụng Bính giải hàn, dụng Tân hóa Kỷ thổ, sinh Nhâm thủy, hoặc dụng Giáp mộc chế Kỷ thổ, đều là địa vị khoa giáp, nhưng lấy Bính Tân, Giáp Kỷ không hợp, không có Nhâm làm hại Bính, mới có thể phú quý. Nếu tứ trụ có Nhâm, Bính hỏa bị chỗ khí Nhâm thủy áp bức, tuy tàng chi mà không khắc, cũng là thường nhân, cần Mậu thổ giải cứu, xoay chuyển để cứu hộ, cách không phải là thượng thừa, làm sinh viên, hay lộc thọ, bất quá cũng chỉ là nổi bật trong đám người tầm thường mà thôi.

Hoặc chi thành kim cục, không thấy Bính Đinh, gọi là Kim thủy trầm hàn hàn đáo để (kim thủy lạnh quá cuối cùng cũng bị chìm) cả đời cô bần, thấy hỏa giải hàn mới được.

Chi thành kim cục, là Mẫu vượng Tử suy, tháng 12 là kim hàn thủy lãnh, không thấy Bính Đinh, không thể thủ dụng.

Tháng 12 Nhâm thủy dụng Bính hỏa, hoặc có Giáp mộc làm phụ tá, dụng hỏa thì mộc là Thê hỏa là Tử, dụng Mậu thì không thể không có Bính.

Tổng kết đoạn văn ở trên, sách viết: Thủy lạnh kim hàn thích Bính Đinh, lấy Bính hỏa làm chủ, nửa tháng sau là thổ vượng dụng sự, Giáp mộc làm phụ tá, kim vượng, tức là Bính thấu gặp Tân, cũng không thành tốt, thấy Đinh hơi cát.

Lấy ở dưới ba tiết, lý lẽ là dụng Đinh, là do bản sao lược mất chỗ chìa khóa cơ bản. Ở Cùng Thông Bửu Giám bản bổ túc kèm theo có thể tham khảo thêm. Bính Tân đều thấu, xem đoạn văn ở trên, nhưng Bính Tân ở mùa Đông, dễ dàng hóa hợp, tức là khiến cho hợp mà không hóa, cũng không tránh khỏi trói buộc dụng thần, giảm tổn lực giải băng hàn, có Đinh phá Tân, thì Bính hỏa có thể lấy để bảo trì độ ấm, cho nên nói thấy Đinh hơi cát.

Hoặc Đinh xuất ra can giờ, hóa hợp thành mộc, chi tháng lại thấy Đinh hỏa, không có Quý phá cách, cũng phú quý.

Chỗ này là nói lấy Đinh hỏa làm dụng, tháng 11 Đinh xuất ra can năm, chi thấy tứ khố, lại chủ phú quý, tháng 12 nguyệt lệnh thấy Sửu, thủy không xung bôn, duy có khí hậu quá hàn, cần Bính Đinh mà không có Quý chế, mới có thể thành dụng, vẫn cần Giáp mộc để dẫn, thông căn ở dưới mới tốt, xem thêm Tiết tháng 11 Đinh hỏa.

Thủy vượng ở Nguyệt viên cần có trí tuệ, phép thủy thổ hỗn tạp nhất định ngu dốt, Nhâm Quý lộ quản lý khu vực phía Nam, chủ cường tráng, phú quý có thể mưu cầu.

Lại viết: Duy chỉ có thủy mộc Thương quan cách, Tài Quan đều thấy thủy là tai họa.

Nói chung luận Nhâm thủy ở ba tháng mùa Đông, vị trí thành, nói là Nguyệt lệnh thủy nằm vượng vậy, thủy thanh chủ Trí, có Kỷ thổ hỗn tạp, trái lại chủ ngu si, lộ quản lý ở khu vực phía Nam, nói là vận hành Tị Ngọ Mùi ở Nam phương vậy, Nhật chủ kiện vượng, chủ phú. Tiêu Tức phú viết: Bắc nhập vận ở Nam phương, mua bán thì thu lại rất lớn là vậy, Đông thủy lấy Bính Mậu làm dụng thần chủ yếu, là Tài Quan vậy, cùng không bị hạn ở thủy mộc Thương quan.

Giáp Dần, Đinh Sửu, Nhâm Dần, Nhâm Dần
Dụng Bính, là Cống Sĩ (từ thời Gia Long trở về trước gọi là Hương cống; tới thời Minh Mạng gọi là Cử Nhân)

Giáp Ngọ, Đinh Sửu, Nhâm Thìn, Ất Tị
Có Bính, là Phú ông.

Giáp Ngọ, Đinh Sửu, Nhâm Thìn, Giáp Thìn
Thiếu Bính, bần khổ.
Ghi chú: Tháng 12 Nhâm thủy, không thể không có Bính, Đinh Giáp lực yếu, có Bính là phú quý, không có Bính là bần khổ, có thể biết là hiển nhiên.

Ất Mùi, Kỷ Sửu, Nhâm Ngọ, Tân Hợi
Sinh viên.

Canh Tý, Kỷ Sửu, Nhâm Dần, Tân Hợi
Phát Giáp.

Canh Ngọ, Kỷ Sửu, Nhâm Thìn, Nhâm Dần.
Tú tài.
Ghi chú: Lấy ba tạo ở trên có Sửu cung thổ kim thủy xuất can, nhưng có Bính Quý là to lớn, không có Bính Quý là nhỏ, cũng là hiển nhiên.

Tân Hợi, Tân Sửu, Nhâm Tuất, Canh Tý
Dụng Mậu nngăn thủy, là Sinh viên.
Ghi chú: Tạo này có Hợi Tý Sửu thành phương, Nhâm thủy rất vượng, cho nên dụng Mậu ngăn thủy, nhật tọa Tài khố, kim thủy diệc ấm áp, cho nên gọi là Thanh khí còn sợ Quan không khởi là vậy.

Bính Dần, Tân Sửu, Nhâm Dần, Tân Sửu
Dụng Bính, đứng đầu một Bộ.
Ghi chú: Bính Tân cùng thấu, hợp trói dụng thần, hỉ dụng Dần cung có Bính hỏa, cho nên có ít công danh.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa cơ bản.

Kỷ Sửu, Đinh Sửu, Nhâm Ngọ, Tân Hợi
Đạo Quang năm thứ 9, tháng 12, ngày 22, giờ Hợi.
Mệnh Lưu Khôn Nhất: Sửu cung thổ kim thủy cùng cung đều thấu, dụng Đinh hỏa, sinh ban đêm nên quý, xem thêm tháng 12 Quý thủy Tuyết dạ đăng quang cách, địa vị là Tổng Đốc Lưỡng Giang.

Mậu Ngọ, Ất Sửu, Nhâm Thân, Ất Tị
Hàm Phong năm thứ 9, tháng giêng, ngày 1, giờ Tị.
Mệnh Triệu Bỉnh Quân: Bính Mậu đắc lộc ở Tị, vận hành Nam phương, địa vị là Thủ Quỹ.

Giáp Tuất, Đinh Sửu, Nhâm Thân, Tân Hợi
Đồng Trị năm thứ 13, tháng 12, ngày 3, giờ Hợi.
Mệnh Dương Độ: Dụng Tuất cung có Mậu thổ ngăn thủy, Giáp Đinh cùng thấu, không có Bính hư mà không thực.

Mậu Dần, Ất Sửu, Nhâm Thân, Mậu Thân
Quang Tự năm thứ 4, tháng 11, ngày 27, giờ Thân.
Mệnh Viên Khắc Định: Mậu thấu Bính tàng, đều ở can năm, chuyên nhận sự che chở của bề trên, cũng hiểu là địa vị trong giới công tử.

Quý Mùi, Ất Sửu, Nhâm Tuất, Canh Tý
Quang Tự năm thứ 9, tháng 12, ngày 16, giờ Tý.
Mệnh Chu Thụy: Chi tụ tứ khố, mà không có Giáp Bính, nhưng giờ phùng Canh Tý có Dương Nhận, hỉ dụng Mậu thổ Thất Sát để chế, là Tam Hình đắc dụng, vận tới Tuất, địa vị là Đô Đốc, nhưng là mệnh đóa hoa Phù Dung sớm nở tối tàn, chỉ có 5 năm thôi.

Kỷ Sửu, Đinh Sửu, Nhâm Ngọ, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ 15, tháng 12, ngày 11, giờ Hợi.
Mệnh Dương Kiệt: Sửu cung thổ kim thủy cùng thấu, dụng Đinh, địa vị tới Quân đoàn trưởng, cũng giống như tạo ở trên mệnh Lưu Khôn Nhất.

Canh Dần, Kỷ Sửu, Nhâm Thìn, Tân Hợi
Quang Tự năm thứ 16, tháng 11, ngày 26, giờ Hợi.
Mệnh Đái Quý Đào: Bính Mậu kết tàng ở Dần cung, địa vị Viện trưởng Viện Kiểm tra (sát hạch).

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Chính nguyệt Quý thủy - Tháng Giêng, Dần, Lập Xuân

Tháng giêng Quý thủy, gặp mùa Tam Dương, là sao Vũ Lộ, tính Vũ Lộ rất nhược, chuyên lấy Tân kim phát sinh gốc, sau lấy Bính hỏa chiếu ấm, gọi là âm dương hòa hợp, vạn vật phát sinh.

Quý là thủy suy kiệt, tới mùa tháng Dần là ở ngôi Bệnh, bản tính đã nhược, lại gặp hưu tù, cho nên trước tiên lấy Tân kim phát sinh gốc, sau lấy Bính hỏa điều hậu, phép xem cùng tháng giêng Nhâm thủy là giống nhau, mà Tân cùng cách ngôi không hợp, đều được dụng là tốt.

Được Tân Bính lưỡng thấu, Khoa giáp phú quý phi thường, cái Quý là Vũ Lộ, có thể thành sông hồ Hợi Tý vậy.

Quý thủy như Vũ Lộ, Hợi Tý như sông hồ, có Tân kim phát sinh gốc, chảy mãi không ngừng, là thành sông ngòi, không nên thấy chất nhu khí nhược mà không chú ý. Bính ở Dần cung là hỏa trường sinh, là gặp mùa Tam dương khai thái, phối hợp được đương, âm dương hòa hài, là Chân thần đắc dụng, cho nên phú quý phi thường vậy (hợp ở yêu cầu là Chân thần, gặp mùa đang vượng là nắm lệnh, tức là hợp yêu cầu, lại gặp đang vượng, tất nhiên là phú quý).

Hoặc chi thành hỏa cục, Tân kim nhận vây khốn, có Nhâm Dần là quý, không có Nhâm là bần tiện, hoặc Bính thấu thiên can, Tân tàng ở Dậu Sửu, cũng chủ tiến cử giám sát sinh viên. Tân Bính đều không có, định chủ bần tiện, hoặc có Tân thấu Bính tàng, được ân phong mà hiển chức. Bính Tân đều tàng, trong phú lấy quý.

Tiếp ở trên có Bính Tân là dụng vậy, chi thành hỏa cục, lấy Nhâm giải cứu, Bính Tân hoặc thấu hoặc tàng, dụng có mờ mịt, phú quý cũng có hơi khác biệt.

Hoặc tháng thấu Mậu thổ, được giờ Bính Thìn, can năm thấu Bính Đinh, không thấu Tỉ Kiếp, là Chân tòng hóa cách, phú quý không có cả hai, thấy hình xung, là thường nhân.

Quý thủy rất nhược, thấy Mậu tất hợp, sinh ở tháng Dần, là Phùng sinh đắc khí, thấy Bính Thìn là nguyên thần hóa khí thấu xuất.

Không có Ấn Kiếp sinh trợ Quý thủy, tất nhiên là tòng hóa, can năm có Bính Đinh là nói can năm sinh trợ hóa thần vậy, không nhất định năm Bính Đinh câu nay là có sai lầm trong lời nói, nên hội ý, thấy Thân Hợi hình xung là phá cách.

Hoặc chi thành thủy cục, Bính thấu mà không có Nhâm, y lộc thường nhân, thấy Bính hỏa trọng nnặng, không có Khoa giáp, cũng chủ là tiến cử danh sĩ, chỗ này hỏa là Thê, thổ là Tử vậy.

Chi thành thủy cục, Bính thấu mà không có Nhâm, là thân vượng gánh nổi tài. Tử không có Tỉ Kiếp tranh tài, định là phú thôi, cổ nhân nói trọng quý mà khinh phú, là mệnh thương nhân trọc phú, cho nên nói là thường nhân. Chi thành thủy cục, mà Bính hỏa trọng nặng, Dần cung có Mậu thổ trường sinh, Tài vượng ám sinh Quan, tuy không có khoa giáp, cũng chủ quý khí. Hỏa là Thê, thổ là Tử là nói lấy thổ làm dụng vậy.

Quý thủy không có Nhâm, không thể dụng Mậu, chi thành thủy cục, Quý thủy phản nhược thành cường, Dần cung có Mậu thổ, có Giáp mộc là chế, cần Bính hỏa nặng, hóa mộc sinh thổ, ý là để lấy tương chế mà thôi.

Tóm lại, tháng giêng Quý thủy, Tân kim làm chủ, sau là Canh kim, Bính cũng không thể thiếu, không có Canh Tân, dù có Bính Đinh, cũng là người vô dụng, nếu hỏa thổ nhiều, định chủ tàn tật.

Tổng kết đoạn văn ở trên, tháng giêng Quý thủy, khí thế hưu tù, Tân kim làm chủ, không có Tân dụng Canh, Quý thủy có gốc, mới có thể dụng Bính Đinh, hóa hợp cùng chi thành thủy cục là ngoại lệ, có thể hiểu hỏa nhiều thổ nhiều mà không có Ấn Kiếp giải cứu, lại không thể tòng hóa, Quý thủy bị nấu khô cạn, là mệnh tàn tật chết yểu. Dụng Tân thì thổ là Thê, kim là Tử. Tháng giêng Quý thủy lấy Bính Tân làm chính dụng, có Tân mới có thể dụng Bính, cho nên thổ là Thê kim là Tử.

Nhâm Dần, Nhâm Dần, Quý Mão, Đinh Tị
Cô bần, bệnh mắt.
Ghi chú: Can thấy 2 Nhâm, không thể nói tòng, mộc vượng hỏa nhiều, Quý thủy khí tiết mà khô cạn, mệnh cô bần, tàn tật.

Nhâm Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Bính Thìn
Có vợ không có con, anh em tương tàn, mệnh thường nhân.
Ghi chú: Dần Mão Thìn thành phương, Thực Thương thái vượng, không thấy Canh Tân, không thể chế mộc sinh Quý để lấy quý, cùng tháng 2 luận giống nhau, Bính hỏa có Thiên Tài xuất can, mà Tỉ Kiếp tranh tài, chỗ này là huynh đệ tương tàn thấy rõ, tứ trụ không có kim, thời quy Mộ Khố, không có con là rõ ràng.
Lâý ở trên tạo ra chìa khóa căn bản.

Canh Dần, Mậu Dần, Quý Hợi, Tân Dậu
Quang Tự năm thứ 16, tháng giêng, ngày 22, giờ Dậu.
Mệnh Lục Liên Khuê: Tháng giêng mộc vượng, Quý thủy bị tiết nhược, không thể không dụng Ấn, Mậu Quý hợp, Nhật nguyên hướng về Quan tinh, Dần Hợi hợp khởi Kiếp Sát, rút cuộc là không được tốt, Mùi vận năm Mậu Dần, gặp kích đâm mà chết, năm 49 tuổi.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Nhị nguyệt Quý thủy - Tháng 2, Mão, Kinh Trập

(Tháng 2 Quý thủy, không cương không nhu, nhưng do Ất mộc nắm lệnh, tiết nhược không có thần, chuyên dụng Canh kim là tốt, Tân kim là phụ tá)

Quý thủy tới tháng 2 là tử địa, rất hưu tù, lại thêm Ất mộc nắm lệnh, tiết nhược nguyên thần, cho nên chuyên dụng Canh Tân phá mộc mà phát sinh gốc thủy, Canh Tân cùng dụng là sợ Ất Canh tương hợp, lấy Tân làm phụ tá cho Canh vậy.

Canh Tân đều thấu, không có Đinh xuất can là Khoa giáp, phú quý. Không có Canh Tân là bần tiện thường nhân, hoặc có Canh thấu Tân tàng, địa vị cao ở con đường khác, Tân thấu Canh tàng, cũng tiến cử làm sinh viên, Canh Tân lưỡng tàng, trong phú lấy quý, khác đường hiển đạt, danh cao ở đường danh bút.

Tháng 2 Quý thủy, thủy mộc Thương quan là thể, mộc thần đang vượng, không thể không bội Ấn, không có Canh dụng Tân, không nhất định chấp nê, thánh 2 dương khí đang duỗi ra, vô hình trung tự có Bính Đinh, cho nên không nhất định thấy rõ Bính Đinh, cũng có thể lấy quý vậy.

Hoặc có Canh Tân quá nhiều, được Kỷ đinh lưỡng thấu, lấy đại quý luận. Chỗ này là nói thể biến dụng, Canh Tân quá nhiều, Quý thủy nhược biến thành cường. Nguyệt lệnh Ất mộc bị khắc không có lực, lấy Tài Quan tương sinh thành dụng, lấy đại quý. Ất tàng Kỷ thấu, là Thiên Quan không bị thương, Canh Tân kim nhiều, không thể không có Đinh chế, Quý thủy rất nhược là trụ không có Nhâm Kiếp xuất can, không thể dụng Mậu thổ, cho nên lấy Đinh Kỷ vậy.

Hoặc chi thành mộc cục, tháng, giờ lại có mộc xuất can, là tiết thủy thái quá, cùng khốn nhiều tai họa, dù vận nhập Tây phương, cũng không có nhiều thanh thái, là người vô dụng.

Chi thành mộc cục, không thấy Canh Tân, là thuận cục Tòng Nhi, một tạo nữ:

Giáp Dần, Đinh Mão, Quý Mão, Ất Mão
Cáo phong nhất phẩm, nhưng là người hèn yếu không có năng lực, vận nhập Tây phương qua đời. Tạo nữ yếu hèn thì ở trên không có hại, nếu là tạo nam, không thể tránh bần khốn mà nhiều tai họa vậy.

Giáp Thân, Đinh Mão, Quý Hợi, Quý Hợi
Là Cống sĩ, đại phú, cái dụng Canh đắc lộc, có tài lược, mà nhiều con tốt đẹp.
Ghi chú: Tạo này Quý thủy thông căn ở Thân Hợi, phản nhược thành cường, tiếc là không có Kỷ thổ, dụng Thực Thương sinh Tài, cho nên phú, chi thấy Thân Canh, vượng mộc có chế, cho nên dụng Đinh hỏa, không dụng Canh vậy.

Bính Thìn, Tân Mão, Quý Dậu, Quý Hợi
Dụng Tân kim, là Phi thiên lộc mã cách, là Thượng Thư.

Đinh Mùi, Quý Mão, Quý Hợi, Quý Sửu
Phi thiên lộc mã cách, bái tướng.
Phi thiên lộc mã cách, lấy Hợi xung Tị, Dậu Sửu hợp trụ có chữ Tị là yếu điểm, cả hai tạo đều chỉ tốt ở bề ngoài, riêng Phi thiên lộc mã, vốn là biến cách của Thương quan, gọi là thành cách, cũng không có thể, tóm lại mộc nhiều thủy tiết, không thể không có kim, cả hai tạo đều lấy Tân kim làm dụng vậy.

Đinh Hợi, Quý Mão, Quý Mão, Quý Sửu
Dụng Sửu trong có Tân kim, lại có Đinh hỏa xuất can, là quan Thị Lang.
Ghi chú: Cùng tạo Đinh Mùi, đại để là giống nhau.

Canh Dần, Kỷ Mão, Quý Hợi, Canh Thân
Chuyên dụng Canh kim, cho nên phụ tá dân tập bắn trong trại lính, thần khâm quỷ phục.
Ghi chú: Tạo này hỉ Dần trong ám tàng Bính hỏa, dụng Canh kim, có âm dương là hài hòa, Thai Nguyên Canh Ngọ, lấy Đinh Kỷ Tài Quan làm dụng vậy.

Canh Tý, Kỷ Mão, Quý Mão, Tân Dậu
Canh Tân lưỡng thấu, địa vị là Các Lão.
Ghi chú: Canh Tân cùng thấy, mà không có Bính Đinh, tuy khoa giáp là chính đường, rút cuộc sợ âm nhu mà gian hiểm, chỗ này là mệnh Nghiêm Tung thời nhà Minh vậy, chi bị Tý Mão Dậu. Thêm Thai Nguyên là Canh Ngọ, thành cách mà bị Tứ Cực (là Tý Ngọ Mão dậu), cho nên có họa gian hiểm, cũng thêm ở Tứ Hải, Ngọ cung có Kỷ thổ đắc lộc, Tài Quan tương sinh là dụng, cách tuy đại quý, nhưng không đủ để giải cứu (năm Long Khánh thứ nhất 1567, Nghiêm Tung 87 tuổi sống trong nghèo khổ bệnh tật, chết trong sự phỉ nhổ của mọi người).

Quý Mão, Ất Mão, Quý Mão, Kỷ Mùi
Ất mộc quá nặng, có thế lực khắc Kỷ, nhưng không có lực khắc, là do Mùi bên trong có tàng Đinh, tiết Ất mà sinh Kỷ vậy, cho nên có danh tiếng trong cung điện.

Quý Mão, Ất Mão, Quý Tị, Giáp Dần
Nên dụng Canh kim, là do trong Tị có Bính chế Canh, phá khứ dụng thần, cho nên cả đời lao khổ, không có tài năng xử thế.
Ghi chú: Lấy hai tạo ở trên, đều là vì mộc vượng không có kim, Quý thủy nguyên thần tiết nhược, không đủ để gánh nổi Tài Quan vậy.
Lấy ở trên tạo ra chìa khóa căn bản.

Đinh Dậu, Quý Mão, Quý Mão, Tân Dậu
Chỗ này là mệnh vua nhà Minh, Mục Tông Long Khánh (niên hiệu vua Minh Mục Tông, công nguyên 1567-1572), có Ấn Tỉ sinh trợ, ngôi vị là Hoàng đế, chuyên được che chở của bề trên, Thai Nguyên là Giáp Ngọ, Thực Thần sinh Tài là dụng, vận hành Tây Bắc, nói là không có lấy thành, cả đời hưởng phúc ấm của bề trên mà thôi.

Tân Tị, Tân Mão, Quý Sửu, Ất Mão
Quang Tự năm thứ 7, tháng 2, ngày 21, giờ Mão.
Mệnh Chương Sĩ Chiêu: Sửu cung có Kỷ Tân, là Sát Ấn tương sinh, Tân thấu Bính tàng, địa vị là Tổng trưởng Giáo dục.

Mậu Tý, Ất Mão, Quý Mùi, Canh Thân
Quang Tự năm thứ 14, tháng 2, ngày 1, giờ Thân.
Mệnh Thạch Mỗ: Giờ phùng Canh Thân, Quý thủy phản nhược thành vượng, nguyệt lệnh Ất Mão, thấy Canh thấu tình tương hợp, chuyên dụng Mùi trong có Đinh hỏa, phá Canh kim Ấn, sinh Kỷ thổ Sát, Mậu thổ hư phù, lại là chỗ vượng mộc gây tổn thương, dụng Sát không dụng Quan, cho nên là địa vị vũ chức, trụ tháng giờ hợp xa, thuở nhỏ du lịch 17 bang ở Âu Mỹ, trở về nước nhận chức quân đội là Thiếu tướng.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Tam nguyệt Quý thủy - Tháng 3, Thìn, Thanh Minh

Tháng 3 Quý thủy, cần phân rõ tiết Thanh Minh hay Cốc Vũ. Sau Thanh Minh hỏa khí chưa rực cháy, chuyên dụng Bính hỏa, gọi là âm dương thừa ái (âm dương nhận hài hòa), sau Cốc Vũ tuy dụng Bính hỏa, hoàn hoàn cần Tân kim phụ tá, phú quý, sau xem thần ở đâu cao thấu không tổn thương, liền có thể định khoa giáp lớn hay nhỏ, như Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Mùi, Bính Thìn, sinh đầu nửa tháng, chuyên dụng Bính, cho nên làm quan triều đình. Nếu sinh ở cuối nửa tháng, thì Bính tuy không thể thiếu, nhưng nhất định cần Canh kim giữ gốc, lại cần phải không có tổn thương, mới chủ phú quý, trên nửa tháng đầu thì mộc là Thê, hỏa là Tử.

Phàm sinh tháng tứ quý (thìn tuất sửu mùi), đều có phân ra đầu và cuối nửa tháng, cần phải xem khí tiến hay thoái, để luận tốt hay xấu. Tháng 3 Quý thủy đến mộ địa, Bính hỏa tiến khí, càng lộ rõ mà thôi, ở trên nửa tháng thì hỏa khí chưa rực cháy. Trong Thìn có Quý thủy, ánh sáng trở lại phản chiếu, do có dư khí, càng thấy Tân kim sinh thì có thể dụng Bính hỏa, gọi là âm dương hài hòa, ở dưới nửa tháng thì thổ vượng nắm lệnh, tuy thấy Bính hỏa, cần phải dụng Canh kim để phát sinh cho gốc thủy, như một tạo Tân Mão, sinh ở trên nửa tháng, dụng Bính hỏa, sinh ở dưới nửa tháng, thì cần phải dụng Tân kim, chỗ này là ví dụ vậy, lại đề phòng Bính hỏa gây tổn thương Tân, cần có Nhâm thủy thấu can giải cứu, nếu không thì không thể quý (mà như Mậu thổ thấu can, nhất định cần Giáp mộc xuất ra giải cứu). Tóm lại Bính Tân không thể thiếu một mới thành âm dương hài hòa. Dụng Bính dụng Tân, thì có trên dưới nửa tháng mà phân biệt vậy.

Hoặc chi thành thủy cục, có 1 Kỷ xuất can, có Bính không có Giáp, chính là Giả Sát vi quyền, cũng quý, có Giáp phá Kỷ, là thường nhân. Chỗ này là nói Tài sinh nhược Sát cách, không có Bính hỏa Tài tinh, thì Kỷ thổ không có lực, có Giáp mộc Thương quan, thì Sát nhược bị chế, cho nên nhất định cần có Bính không có Giáp, mới có thể là Giả Sát vi quyền vậy (Quý thủy không thể dụng Mậu thổ, thủy vượng chỉ có thể dụng Kỷ thổ, tức là Tài Quan cách vậy, xem ở dưới Tiết Tòng Hóa).

Hoặc chi tọa tứ khố, lại cần Giáp thấu, mới có thể định phú quý, không có Giáp thì là Tăng đạo, cô bần. Chi tọa tứ khố là bệnh, Giáp thấu là dược, dụng thần vẫn lấy Tân kim, phàm thổ tọa sinh vượng địa, tuy lấy Giáp Ất chế vẫn lấy kim thủy làm dụng, xem ở trên Tiết tháng 6 Nhâm thủy.

Hoặc chi thành mộc cục, không có kim khí, là Thương quan sinh Tài, chủ có tài trí ăn học mà có tài lộc, mà cũng làm sinh viên, nhưng thiếu niên gặp nhiều trở ngại, là không có thực tài vậy.

Ở dưới nửa tháng thì Bính hỏa tiến khí, chi thành mộc cục, Thực Thương vượng, ám sinh Tài, (thành mới luận giống nhau), nhưng Quý thủy nguyên thần bị tiết nhược, sao mà có lực phụ giúp, có kim thì quý, không có kim thì thông tuệ mà không có thực tài. Ở dưới nửa tháng, thì thổ là Thê, kim là Tử.

Chi thành thủy cục sau đây có 3 đoạn, đều chỉ là dưới nửa tháng mà nói, có kim, mới có thể là Giả Sát vi quyền, hoặc có dụng Thực thần chế Sát, hoặc có dụng Thương quan sinh Tài vậy, cho nên xem thê tử, đều lấy theo Thổ và Kim.

Tóm lại, tháng 3 Quý thủy chuyên dụng Bính Tân, mà Kỷ Giáp cần cân nhắc mà dụng. Dụng Kỷ là Giả Sát vi quyền vậy, dụng Giáp là Thực Thương chế Sát vậy, xem đoạn văn ở trên. Tháng 3 Quý thủy, tòng hóa là nhiều, đắc hóa là vinh lộc, không hóa là người bình thường. Sinh ở tháng 3, Phùng Long nhi hóa, Bính hỏa tiến khí, càng dễ hóa hợp, nếu hóa khí không thành, nhất định là cách cục bình thường, không lấy mệnh phú quý xem, Mậu thổ là Quan tinh, không thể không có Tài tinh để sinh, thấy Bính hỏa Tài tinh, thì thành hóa cách vậy. (Tiết này bản sao chép làm mất chỗ tạo ra chìa khóa căn bản, xem thêm phụ lục)

Bính Dần, Nhâm Thìn, Quý Tị, Giáp Dần
Tạo này có hai người cùng tuổi, người sinh ở trên nửa tháng, tuổi già, địa vị làm Tổng Đốc, người sinh ở dưới nửa tháng, thiếu niên, gặp nhiều khốn khổ hình khắc, sau được tiến cử vũ chức.
Ghi chú: Nhâm Quý cùng thấu, cùng Nhâm thủy luận như nhau, sinh ở trên nửa tháng, thủy có dư khí mộ khố, Tị cung có Bính Mậu, đắc lộc gặp quý, vận tới Tây phương, chế trụ Giáp mộc Thương quan, là Sát Ấn tương sinh, đại quý không nghi ngờ, sinh ở dưới nửa tháng, thổ vượng dụng sự, thủy không có dư khí, Mậu thổ ám vượng, làm mờ Bính mà bế tắc Nhâm, giao tiến Tây phương, mới khỏi khốn ách, được tiến cử vũ chức, Trích Thiên Tủy viết: Chữ Tiến chữ Thoái cần khen ức, hai vị có điểm khác nhau, tức là ở Tiết Khí giữa tiến và thoái vậy.

Bính Dần, Nhâm Thìn, Quý Sửu, Bính Thìn
Bính thấu, là Phò Mã.
Ghi chú: Thìn Sửu đều là thấp thổ, Sửu cung thổ kim, Sát Ấn tương sinh, chuyên dụng Bính hỏa Tài tinh, Tài không tổn thương Ấn, là dựa vào vợ mà được quý.

Đinh Mão, Giáp Thìn, Quý Hợi, Tân Dậu
Không có Bính dụng Tân mà hiển đạt, do Tân kim đắc lộc, là do có thể lấy phụ tá Quý vậy.
Ghi chú: Tạo này không có Bính dụng Tân mà hiển đạt, lấy kỳ sinh ở dưới nửa tháng, Bính hỏa tiến khí, chi hội Hợi Mão, can thấu Giáp Đinh, không thể không dụng Ấn vậy.

Mậu Ngọ, Bính Thìn, Quý Sửu, Tân Dậu
Sinh ở dưới nửa tháng, là Tướng quân.
Ghi chú: Sinh ở dưới nửa tháng, hỏa thổ tiến khí, chuyên dụng Tân kim.

Kỷ Dậu, Mậu Thìn, Quý Dậu, Bính Thìn
Trước bần sau phú, vạn kim.
Ghi chú: Mậu Quý tương hợp, giờ thấu Bính Thìn, tất nhiên hóa hỏa, chi thấy Thìn Dậu hợp kim, là hóa Tài khí, cho nên giàu có vạn kim, hóa thần hỉ hành vượng địa, tiếc là nguyên mệnh hỏa không sinh vượng, vận trình lại hành Bắc phương, cho nên phú mà không quý.

Mậu Thìn, Bính Thìn, Quý Sửu, Nhâm Tý
Gia Khánh (niên hiệu của vua Nhân Tông thời nhà Thanh, Trung Quốc, 1796-1820) năm thứ 13, tháng 3, ngày 17, giờ Tý.
Mệnh Lưu Côn: Tài Quan lưỡng vượng, hỉ giờ gặp Nhâm Tý, Sửu cung có Tân kim, cát thần ám tàng, vận tới Canh Thân, Tân Dậu, là Sát ấn tương sinh, thân vượng có thể gánh nỗi Tài Quan, làm quan tới Tuần Phủ.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Tứ nguyệt Quý thủy - Tháng 4, Tị, Lập Hạ

(Tháng 4 Quý thủy, hỉ thấy Tân Mẫu, không có Tân, Canh cũng có thể dụng, nhưng không tự nhiên)

Tháng 4 hỏa thổ cùng vượng, Quý thủy lâm ở tuyệt địa, không có Ấn Kiếp sinh trợ, không đủ lấy tồn tại, Tân kim, Quý thủy, là Mẫu vậy, Canh Tân dụng như nhau, nhưng mà âm sinh âm, dương sinh dương, là xuất ra ở tự nhiên vậy.

Như Tân xuất can, tứ trụ lại không có Ngọ Đinh, lại thêm có Nhâm thấu, phú quý cực phẩm, nếu có Đinh tàng phá cách, là bần khổ thường nhân, thấy Nhâm nghèo không quá đáng, Tân tàng không có Đinh, tiến cử làm giám sát sinh viên, hoặc có Quý chế Đinh, y lộc sung túc, nhưng có họa hình thê, chọn lựa phối hợp cần mệnh mạnh là tốt.

Chỗ này là nói dụng Tân kim, kỵ Đinh hỏa tổn thương dụng, giờ gặp hỏa vượng, tức khiến cho Tân kim xuất can, Đinh hỏa tàng ở Ngọ, cũng là bị tiêu dong, nhất định cần có Nhâm Quý giải cứu, nhưng Nhâm thấy Đinh là tương hợp, tức khiến cho không hóa, nói chung sợ có tình, tạm thời thắng ở không có chế, cho nên nói la nghèo không quá đáng, thấy Quý chế Đinh, bệnh dược là tương đương, nhưng Đinh là Tài, thê tài bị Kiếp đoạt, không khỏi hình thê, chọn lựa kim thủy vượng mà phối hợp là tốt.

Hoặc một lúc có hỏa thổ không có Tân, tức có Kỷ sinh Canh, không thể không có thủy, lại không có Tỉ kiên Dương Nhận, gọi là Hỏa thổ ngao Quý, không hại mắt cũng hại tinh, có họa có thể không có ác tật.

Tháng 4 hỏa thổ đang vượng, Tị cung có Canh kim, là chỗ hỏa thổ áp bức, không thể sinh thủy, tuy có Thực trường sinh, không thể lấy để thành dụng vậy, như can không có Canh Tân, cần thấy Thân Dậu Sửu, mới là có thể dụng, không có kim lại không có Hợi Tý Kiếp Nhận, gọi là Hỏa thổ làm khô cạn Quý thủy, Quý là mắt, cho nên chủ tổn hại mắt, lại thủy là thận, cho nên chủ tổn tinh, tóm lại tháng 4 Quý thủy, Kiếp Ấn không thể khuyết một, lấy thủy chế hỏa tồn kim, lấy kim hóa thổ sinh thủy, giao hỗ thành dụng, Tị cung có Canh kim trường sinh, khí rất là nhược, áp bức ở hỏa thổ, không thể sinh thủy, thấy Sửu hội cục, Canh kim tức là chuyển sinh vượng, có thể sinh Quý thủy, gọi là thấp thổ sinh kim, chỗ này cùng tháng Hợi thấy Mùi là hội cục, mộc chuyển sinh vượng, có thể sinh Bính hỏa cùng là một lý vậy, Sửu cung thổ kim thủy, là Sát ấn tương sinh, ở Quý thủy là Tuyệt xứ phùng sinh, là đại phú quý không nghi ngờ, cũng là cách đứng đầu vậy, xem ở dưới tạo Trần Mỗ Long.

Nếu Canh Nhâm lưỡng thấu, chế hỏa nhuận thổ, là có căn nguyên vậy, gọi là Kiếp Ấn hóa tấn, đại phú đại quý, thấy Đinh khắc Canh hợp Nhâm là có tang mẹ, nhất định trở thành phế nhân. Chỗ này là nói Kiếp Ấn hóa tấn cách, tháng 4 mùa hỏa thổ đang vượng, Quý thủy mùa cực nhược, được Canh Nhâm lưỡng thấu, là Tuyệt xứ phùng sinh, phản nhược thành cường, lấy Tị cung có Bính Mậu làm dụng, hóa kỵ thành hỉ, chỗ này là cách hiếm có vậy. Kiếp Ấn hóa tấn là Kiếp Ấn Canh Nhâm vậy, Tấn, là tên gọi của Quẻ dịch Ly ở trên Khôn ở dưới, tên là Hỏa Địa Tấn, lấy ví dụ như hỏa thổ vậy, cục cần đầy đủ Kiếp Ấn, mới là thành cách, xem ở dưới mệnh tạo của vua nhà Minh (1368-1644) (Minh Thái tổ là Chu Nguyên Chương đánh được nhà Nguyên lên làm vua gọi là nhà Minh) Hoàng đế Vĩnh Nhạc (niên hiệu vua Thành Tổ thời Minh, ở Trung Quốc, 1403-1424), Canh là mẫu của Quý, Nhâm là huynh của Quý vậy, thấy Đinh hỏa khắc Canh là có tang mẹ, hợp Nhâm là phá cách, nhất định trở thành phế nhân.

Hoặc có Canh không có Đinh, tức là không có Nhâm, cũng là nho lâm tú sĩ, nhưng có mà không hiển vinh.

Tiếp ở trên, là nói khắc Canh hợp Nhâm, mùa gặp hỏa vượng, không có thủy phá hỏa, rút cuộc sợ khí kim bị chỗ hỏa thổ trói buộc, tuy là Nho lâm Tú sĩ, cũng không khỏi tránh khó khăn mà không hiển lộ, thân lại gặp Ấn Kiếp, ý nói cả hai nhất định cần cùng dụng vậy.

Phàm không có Tân dụng Canh, dù có phú mà không quý tất nhiên bằng con đường khác mà được quan, cho nên chuyên dụng Tân làm chủ.

Tổng kết đoạn văn ở trên, nói không có Tân dụng Canh, dù có thể là tương sinh, nhưng không xuất ra ở chỗ tự nhiên, do đó là dùng con đường khác, trong phú lấy quý.

Giáp Thìn, Kỷ Tị, Quý Dậu, Ất Mão
Dụng Tân đắc địa, là Bát Tọa.

Giáp Thìn, Kỷ Tị, Quý Dậu, Tân Dậu
Tân thấu Quý tàng, thân cường Sát vượng, là Phương Bá.

Giáp Dần, Kỷ Tị, quý tị, Quý Hợi
Tài vượng sinh Quan, hành Bắc phương vận, bái tướng phong hầu.
Lấy cả ba tạo ở trên, Thai Nguyên là Canh Thân, chi thấy Tị Dậu hội cục, Hợi cung có Nhâm thủy phá Bính, Giáp mộc phá Mậu, dù là cách cục Tài vượng sinh Sát, chỗ dụng hoàn toàn là ở Ấn Kiếp, mà không có kim thủy để trợ giúp, không thể gánh nỗi Tài Sát, thì Tài Sát phản lại là vật khắc thân vậy.
Lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

Canh Tý, Tân Tị, Quý Dậu, Tân Dậu
Mệnh vua Minh Thành Tổ (Vĩnh Nhạc): là Kiếp Ấn hóa Tấn cách, Canh Tân cùng thấu, chi hội kim cục, Quý thủy chuyển nhược thành cường, trái lại dụng Tị cung có Bính Mậu, giao vận Bính Tuất, Đinh hỏa thổ vận, lần lượt bước lên ngôi vị Hoàng đế.

Đinh Tị, Ất Tị, Quý Sửu, Bính Thìn
Hàm Phong năm thứ 7, tháng 5, ngày 3, giờ Thìn.
Mệnh Trần Mỗ Long: Tị Sửu hội cục, là thấp thổ nhuận kim, Canh kim có khí, tức có thể là gốc Quý thủy, chỗ này cùng Kỷ thổ hỗn Nhâm cách là tương tự, cát thần ám tàng tọa ở dưới, Quý thủy là đất Tuyệt xứ phùng Sinh, vận hành kim thủy, địa vị là Tổng đốc Bắc Dương, là mệnh phú quý, phúc thọ.

Giáp Thân, Kỷ Tị, Quý Hợi, Quý Hợi
Quang Tự năm thứ 10, tháng 4, ngày 19, giờ Hợi.
Mệnh Tạ Hồng Huân: Canh Nhâm đều tàng mà đắc địa, vận hành Tây phương, địa vị là Sư đoàn trưởng.

Canh Dần, Tân Tị, Quý Sửu, Nhâm Tý
Quang Tự năm thứ 16, tháng 4, ngày 14, giờ Tý.
Mệnh Thiệu Nguyên Xung: Canh Tân Nhâm thấu, chi tụ Tý Sửu, tiếc là năm mệnh gặp Dần, là Kiếp Ấn hóa tấn cách không thuần, cũng lấy Tị cung có Bính Mậu làm dụng, địa vị là Chủ tịch tỉnh Thiểm Tây.

Mậu Thân, Đinh Tị, Quý Dậu, Giáp Dần
Quang Tự năm thứ 13, tháng 4, ngày 19, giờ Dần.
Mệnh Trương Học Minh: Chi hội kim cục, lại có Canh kim đắc lộc, vận hành Tây phương, tất thấy trở nên nổi bật.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Ngũ nguyệt Quý thủy - Tháng 5, Ngọ, Mang Chủng

Tháng 5 Quý thủy, mùa rất nhược mà không có căn gốc, vốn là hỉ Canh Tân làm gốc để sinh thân, là Đinh hỏa nắm quyền, Canh Tân dù có thể sinh Quý, mà không thể cùng Đinh là đối địch, trái lại sợ Đinh vậy, cần dụng Tỉ kiên Kiếp tài, mới được Canh Tân dụng tốt.

Tháng 5 hỏa thổ đang vượng, Quý thủy cực nhược, rất cần Ấn Kiếp cùng thấy, dụng thủy chế hỏa hộ kim, dụng kim hóa thổ sinh thủy, hỗ tương cứu hộ, mới được dụng, cùng tháng 4 giống nhau, yêu cần là bách thiết, Canh Tân không có phân ra trước sau, nhưng Tân Nhâm xuất can, đề phòng Bính Đinh hóa hợp thành bệnh mà thôi.

Như Canh Tân lưỡng thấu, Nhâm Quý xuất can, định chủ đỉnh cao danh gia, thân bạn quân vương, hoặc kim thấu, chi thành Thân Tý, tiến cử sinh viên, không có thủy xuất can, duy chỉ thấy 1 thủy, tuy thấu Canh Tân, bất quá chỉ là cự phú, cho nên viết: gốc thủy hội hợp trên dưới, quý khinh mà phú tự nhiên. Lại viết: kim thủy hội hợp dưới trên, phú quý tự thiên đến, vận hành hỏa thổ địa, danh lợi nói chung là vô biên.

Nói chung, ý là nói luận Ấn Kiếp cùng dụng, Canh Tân thấu can, lại thấy Nhâm Quý, hoặc kim thấu mà chi hội thủy cục, đều là kim thủy lưỡng vượng, phản nhược thành cường, nguyệt lệnh Tài Quan nắm lệnh, là chân thần đắc dụng, vận hành hỏa thổ, phú quý không nghi ngờ, chi tàng 1 thủy, trụ có Canh Tân, vẫn dụng Kiếp Ấn, bất quá là tạo nhất phú, cái tháng 5 là Đinh vượng, dụng Canh Tân, nhất định cần có Tỉ Kiếp để hộ, không có Tỉ Kiếp, Canh Tân thụ thương, cho nên là không quý vậy, gốc thủy là Thân vậy, lại thấy Tý Thìn hội cục, thân vượng mà gánh Tài mà Tài nhận vượng, cho nên quý khinh phú trọng, kim thủy hội ở dưới, nói là kim thủy hội cục, phản nhược thành vượng, lấy Tài Quan chân thần làm dụng, tức là Kiếp Ấn hóa tấn cách vậy.

Hoặc chi thành hỏa cục, không phải tên Viêm thượng, không có Nhâm, định là tăng đạo đơn độc, nếu 2 Nhâm 1 Canh cùng thấu, là vĩnh thực thiên lộc, y cẩm yêu kim (vĩnh viễn hưởng lộc trời, áo gấm lưng kim).

Chi thành hỏa cục, cần nhất là thấy Mậu thổ thấu ra, cách thành tòng hóa, không có Mậu, không thể lấy Tòng Tài cách xem (xem ở dưới mệnh họ Lưu). Tháng 5 thì Thai Nguyên ở Dậu, Quý thủy vô căn mà có căn (tháng 9 Thai Nguyên không lấy chỗ này luận), không có tên Viêm Thượng là nói không thể tòng Đinh hỏa làm dụng (Đinh hỏa không có Viêm Thượng, xem Đinh hỏa Tiết tháng 5). Đã không thể tòng, thì nhất định cần Nhâm thủy giải cứu, nếu không, hỏa thổ nấu khô Quý, định chủ tàn tật chết yểu, thấy có 2 Nhâm 1 Canh, tất chủ hưởng phúc ấm bề trên, Tài thành phương cục, tất là đại phú, là Kiếp Ấn, thì quý cũng do phúc ấm ở trên mà đến vậy.

Hoặc một lúc có Kỷ thổ, không có thủy không có Giáp xuất ra chế, lấy Tòng Sát luận, phú quý không phải ít, phàm Tòng Sát thấy hình xung phá hại, là cách bần tiện, Ngọ cung có Đinh Kỷ cùng vượng, khí Đinh hỏa tiết ra ở Kỷ thổ, không thể Tòng Tài, thấy một lúc Kỷ thổ, Ngọ phá Thai Nguyên Dậu, Kỷ thổ chế trụ Quý thủy, cho nên có thể Tòng Sát, nhưng lấy không có kim thủy Giáp mộc là điều kiện thành cách, phàm Tòng cách đúng hình xung phá hại, đều là nhật chủ có căn, như Tý xung Ngọ, Sửu hại Ngọ, hoặc Ngọ phá Dậu, đều khiến cho Quý thủy có căn mà phá cách vậy.

Tóm lại tháng 5 Quý thủy, Canh Tân Nhâm cần cân nhắc cùng có thể dụng vậy.

Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Quý Sửu, Ất Mão
Gia Khánh năm thứ 25, tháng 4, ngày 28, giờ Mão.
Mệnh Đinh Bảo Trinh: Nhật tọa Sửu cung, Sát ấn tương sinh, Thai nguyên quý Dậu, lại được Canh Nhâm xuất can, làm quan Tổng Đốc, mất được phong danh Văn Thành.

Quý Tị, Mậu Ngọ, Quý Hợi, Đinh Tị
Đạo Quang năm thứ 13, tháng 4, ngày 23, giờ Tị.
Mệnh Tương Ích Lễ: Nhật tọa Hợi cung, Thai Nguyên Kỷ Dậu, chuyên dụng Ấn Kiếp, địa vị Tuần Phủ.

Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Quý Tị, Quý Hợi
Quang Tự năm thứ 6, tháng 5, ngày 26, giờ Hợi.
Mệnh Nghê Đạo Lương: Canh kim Nhâm Quý xuất can, kim thủy vượng, dụng Ngọ cung có Đinh Kỷ, tiếc là Tị Ngọ cùng thấy, là Quan Sát hỗn tạp, ở trên nhận lấy công lao lớn mà duyệt, vị trí là Tỉnh trưởng.

Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Quý Tị, Giáp Dần
Quang Tự năm thứ 8, tháng 5, ngày 8, giờ Dần.
Mệnh Lưu Hàn Di: Quý thủy vô căn, 1 Nhâm không đủ lấy để giải cứu, lại hỉ có Quý Tị, Nhâm Ngọ, là thiên địa tương hợp, cách thành tòng hóa, Giáp mộc xuất can, chế Kỷ tiết Nhâm mà sinh Bính hỏa, là Tòng Tài cách chân, mệnh cự phú, vận hành Tây phương, Tài vượng phá Ấn, an phú tôn vinh, một mạch tới Bắc phương, gặp trùng điệp bạo nghịch, tổn thất rất lớn, là Tòng Tài xác định vậy.

Ghi chú: Tháng 5 Quý thủy, do đó không dễ nói tòng là do Thai Nguyên Dậu cung, ám sinh Quý thủy, tự nhiên có căn vậy, Tài là cái Ta khắc, cho nên không dễ Tòng, Sát là cái khắc Ta, cho nên có thể tòng, tạo này tốt là ở Mậu Quý Đinh Nhâm lưỡng hợp, hóa mà kiêm tòng, nếu không, cũng khó lấy tòng luận vậy.

Quý Tị, Mậu Ngọ, Quý Tị, Nhâm Tý
Quang Tự năm thứ 19, tháng 5, ngày 12, giờ Tý.
Mệnh Thường Chi Anh: Chuyên dụng Nhâm thủy giải cứu, năm tháng có Mậu Quý ám hóa là Tài, Ngọ cung có Đinh Kỷ, Tị cung có Bính Mậu, là Quan Sát hỗn tạp, tuy có ngôi lộc mà không thanh, Tài Sát thái vượng, không có Ấn, chỉ có thể lấy Kiếp làm dụng vậy.

Nhâm Thìn, Bính Ngọ, Quý Tị, Giáp Dần
Quang Tự năm thứ 18, tháng 6, ngày 11, giờ Dần.
Mệnh Lưu Trì: Thai Nguyên là Đinh Dậu, can thấy Nhâm Thìn, chuyên thủ Ấn Kiếp giải cứu, địa vị tới Chủ tịch tỉnh.
Một thuyết nói sinh ngày 6 tháng 6, là Nhâm Thìn, Bính Ngọ, Nhâm Thìn, Nhâm Dần. Không biết ai đúng.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
Lục nguyệt Quý thủy - Tháng 6, Mùi, Tiểu Thử

Tháng 6 Quý thủy, lấy 2 tiết mà suy, nửa tháng đầu Canh Tân vô khí, nửa tháng cuối Canh Tân có khí, phàm ngày Lục Quý, nhiều người suy chỗ tháng này không nghiệm, là sao vậy?

Không hiểu trong Mùi có Ất, cùng Kỷ là đồng cung, muốn phá mà không phá, Quý thủy không thể Tòng Sát, chuyên dụng Canh Tân làm chủ, nửa tháng đầu tuy có Canh xuất can, nhưng mà kim sợ hỏa viêm, cần có Tỉ Kiếp trợ giúp kim, mới định Khoa giáp phú quý, không có Tỉ Kiếp là thường nhân, đến nửa tháng cuối, Canh Tân có khí, tức là không có Tỉ Kiếp không kỵ, có Đinh thấy Canh Tân thấu thì liền suy ra phú quý, nhưng cũng kỵ Đinh thấu cùng ở Mùi đều không tốt vậy.

Phàm tháng tứ quý, đều có nửa tháng đầu và cuối mà phân biệt, Quý thủy sinh trước tiết Đại Thử, phép xem cùng với tháng 5 hơi giống nhau, sở dĩ không thể Tòng Sát là do trong Mùi có Ất Kỷ đồng cung, là do Kỷ thổ bị chỗ Ất mộc chế vậy, chuyên dụng Ấn Kiếp, sau tiết Đại Thử thì kim tiến khí, có thể lấy chuyên dụng Canh Tân, không nhất định Tỉ Kiếp trợ giúp, nhưng kỵ Đinh hỏa, Đinh tàng trong Mùi, Canh Tân xuất can, liền suy phú quý, Đinh hỏa xuất khỏi Mùi là kỵ.

*Như năm 2021, Tiểu Thử từ 7 tháng 7, Đại Thử từ 22 tháng 7

Ất Dậu, Quý Mùi, Quý Mùi, Canh Thân
Sinh ở nửa tháng đầu, Canh kim được chỗ, là Thừa tướng.

Ất Mùi, Quý Mùi, Quý Mão, Quý Sửu
Sinh ở nửa tháng đầu, quan Đô Ti.
Tạo ở trên, dụng ở Canh Thân, kim thủy tương sinh, tạo này dụng ở Quý Sửu, cũng là kim thủy tương sinh, duy chỉ có cách cục có cao hay thấp vậy.

Kỷ Mùi, Tân Mùi, Quý Mùi, Bính Thìn
Sinh ở nửa tháng cuối, dụng Tân, quan Tri Châu.
Năm tháng có Kỷ Tân, là Sát ấn tương sinh, tiếc là không thông căn, Bính Tân cách ngôi không hợp, cho nên có địa vị trăm dặm, so sánh ba tạo, cách cục cao thấp tự biết.
Lấy ở tạo trên làm chìa khóa căn bản.

Bính Tý, Ất Mùi, Quý Mão, Đinh Tị
Quang Tự năm thứ 2, tháng 6, ngày 14, giờ Tị.
Mệnh Lâm Trường Dân: Quý thủy cực nhược, được trụ năm có Tý thủy giải cứu, là chỗ nhờ cậy Tổ ấm vậy, Mão Mùi hội cục thấu Ất, Thương quan tiết nhược khí Quý thủy, cho nên là tuyệt đỉnh thông minh, văn chương cái thế, sinh ở trước tiết Lập Thu 4 ngày, là kim thủy tiến khí, cho nên có địa vị tương xứng, tới Dần vận, cùng theo Quách Tùng vể sau bị phản kích mà chết.

descriptionLuận THỦY EmptyRe: Luận THỦY

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết